Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ là một trong những chủ đề rất hay nằm trong chương trình Ngữ văn 11 sách Kết nối tri thức với cuộc sống tập 1.
Nghị luận về một tác phẩm thơ lớp 11 gồm dàn ý và 2 bài văn mẫu siêu hay. Hi vọng qua bài văn mẫu này các bạn có thêm nhiều nguồn tư liệu hữu ích tham khảo củng cố kỹ năng lập luận để biết cách viết bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ hay. Ngoài ra để học tốt Ngữ văn 11 các bạn xem thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11 Kết nối tri thức.
Dàn ý nghị luận về một tác phẩm thơ
I. Mở bài:
– Giới thiệu sơ lược về tác giả: tên tuổi, bút danh, vị trí trong nền văn học, chủ đề sáng tác, phong cách sáng tác, những đóng góp của tác giả đối với phong trào văn học, giai đoạn văn học và nền văn học dân tộc.
– Giới thiệu tổng quát về bài thơ: hoàn cảnh xuất xứ, đại ý, nội dung chính của đoạn thơ/bài thơ. Dẫn vào đoạn thơ, bài thơ cần phân tích: trích lại bài thơ (nếu ngắn) còn khổ thơ thì phải ghi lại tất cả.
II. Thân bài:
– Khái quát về vị trí trích đoạn hoặc bố cục, mạch cảm xúc chủ đạo của khổ thơ, bài thơ.
– Giới thiệu vấn đề nghị luận và phương hướng nghị luận.
– Phân tích bài thơ/đoạn thơ: trích thơ rồi lần lượt phân tích những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, v.v…. trong từng câu thơ, giải mã đúng từ ngữ, hình ảnh đó để giúp người đọc cảm thấy được những cái hay, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật cảu bài thơ.
Lưu ý: Nên phân tích từ nghệ thuật đến nội dung, khi phân tích phải dựa vào từ ngữ có trong bài thơ, hoàn cảnh ra đời, phong cách sáng tác của tác giả để tránh suy diễn miên man, không chính xác, cụ thể:
* Phân tích khổ thơ thứ nhất :
+ Nêu nội dung chính của khổ thơ thứ nhất:
(Trích thơ…)
+ Áp dụng các thủ pháp phân tích thơ để phân tích những hình ảnh, từ ngữ, biện pháp nghệ thuật tu từ, nhịp điệu, v.v. trong từng câu thơ; giải mã những từ ngữ, hình ảnh đó có ý nghĩa gì, nó hay, đặc sắc ở chỗ nào.
+ Liên hệ, so sánh với những bài thơ cùng chủ dề.
+ Chuyển sang khổ thứ hai.
* Phân tích khổ thơ thứ hai:
+ Cách làm bốn bước tương tự khổ thứ nhất.
+ Rồi cứ tiếp tục như thế đến hết bài.
(Lưu ý: đôi khi có thể phân tích hai khổ thơ cùng một lúc nếu hai khổ thơ cùng một ý nghĩa)
– Nhận xét đánh giá bài thơ:
+ Đánh giá về nội dung, tư tưởng của bài thơ. (Nét đặc sắc về nội dung của bài thơ là gì? Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về nghệ thuật. (Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về phong cách tác giả. (Qua bài thơ em thấy tác giả là người như thế nào; có thể nói thêm những đặc điểm về phong cách nghệ thuật và đóng góp của nhà thơ trên văn đàn lúc bấy giờ).
III. Kết bài:
+ Khẳng định lại toàn bộ giá trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
+ Liên hệ bản thân và cuộc sống (nếu có).
Nghị luận bài thơ Nhớ đồng
Tố Hữu – một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông được kết nạp đảng năm 1938 thì đến năm 1939 trong quá trình hoạt động đã bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ, hoạt động cách mạng hăng say và nhiệt huyết là thế nhưng lại bị bắt giam nên trong quá trình bị giam cầm ông đã sáng tác một tập thơ mang tên “Từ ấy”, bài thơ “Nhớ đồng” nằm trong phần “Xiềng xích” của tập thơ nói về tâm trạng nhớ quê hương, cách mạng của ông những ngày tháng sống trong trại giam.
Trong hoàn cảnh bị giam cầm tù hãm, người chiến sĩ cộng sản không tránh khỏi những u buồn, nhớ thương, chính tiếng hò vang vọng đâu đó đã đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người tù. Giữa không gian đồng không mông quạnh trưa nắng, một con người lẻ loi, cô độc đang bị giam cầm tách biệt với cuộc sống bên ngoài.
“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò”
“Gì sâu bằng” ấy là nói về nỗi nhớ sâu thẳm trong cõi lòng tác giả, điệp từ “đâu” ở đầu suốt năm câu thơ như là nỗi day dứt tìm kiếm trở về với cuộc sống khi xưa, tìm kiếm sự yên bình nơi quê hương trong sự ngậm ngùi:
“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi…
Đâu những đường con bước vạn đời”
Bức tranh cuộc sống sinh hoạt làng quê thân thương và rất đỗi bình dị hiện ra trước mắt người tù cộng sản, chỉ là tưởng tượng thôi nhưng nó sống động và tuyệt đẹp, giàu xúc cảm biết bao. Không chỉ là cảnh đồng lúa, khóm tre, nương rẫy hay những mái nhà tranh, ở trong tâm tưởng của nhà thơ còn có con người, những người nông dân cơ cực vất vả nhưng ấm áp tình người.
“Đâu những lưng cong xuống luống cày…
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi…
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi”
Đâu đó còn là bóng dáng của người mẹ thương nhớ càng siết chặt thêm nỗi khắc khoải khôn nguôi của nhà thơ, tác giả như chìm đắm, say trong những cơn nhớ nhung không dứt “Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ…” từng lời như đang than thở vì sự bất khả kháng với hoàn cảnh của chính mình, không thể thoát ra để giải tỏa nỗi lòng. Người chiến sĩ trẻ nhớ về những ngày đầu đến với lý tưởng cách mạng và thời hoạt động cách mạng tự do của mình:
“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi…
Trên chín tầng cao bát ngát trời”
Trước là nhớ về quá khứ tối tăm ngột ngạt của mình để như khẳng định hơn sự sáng suốt và đúng đắn, niềm hạnh phúc khi tìm được lý tưởng cách mạng, và rồi tác giả tự cho mình những giây phút say trong niềm khao khát hoạt động cách mạng ấy, tâm trạng u buồn bỗng nhiên được tưới mát trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, “Nhẹ nhàng như con chim cà lơi”, cánh chim tượng trưng cho sự tự do tự tại và tác giả đang ví mình là những con chim đó, say trong đồng hương nắng như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng. Nhưng dù có cố gắng cách mấy nhà thơ cũng không tránh khỏi sự đối mặt với thực tại bị giam hãm trong lao tù, hai câu thơ kết lặp lại y nguyên hai câu thơ đầu, nhấn mạnh sự bất lực, bế tắc không có lối thoát. Mặc dù vậy tư tưởng hướng về quê hương và cách mạng vẫn còn đó, khát vọng về một ngày được tự do được hoạt động cách mạng vẫn luôn cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản.
Qua bài thơ “Nhớ đồng” người đọc không chỉ cảm nhận được một tình yêu quê hương tha thiết của Tố Hữu mà còn thấy hiện lên một người chiến sĩ cộng sản yêu lý tưởng cách mạng, yêu đất nước và khát vọng tự do hành động, hy sinh vì Tổ quốc.
Nghị luận bài thơ Tràng giang
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sau mưa
Cùng đất nước mà nặng buồn sầu núi
Những câu thơ trên như gió lại cái hồn riêng của thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Dường như mỗi câu thơ là chất chứa bao nỗi sầu thiên thu vạn cổ, ẩn trong đó những tâm tình sâu nặng với quê hương đất nước. Huy Cận hay viết về thiên nhiên, vũ trụ về những khoảng thời gian buồn vắng hiu quạnh với sự kết hợp của chất cổ điển và hiện đại làm nên một vẻ đẹp riêng độc đáo. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ, cho hồn thơ Huy Cận. Bài thơ không chỉ mang nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên mênh mông hiu quạnh, mà còn thấm đượm cả nỗi sầu nhân thế và tấm lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ.
Tràng giang được gợi cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu nơi bờ nam bến Chèm, trước khung cảnh sống Hồng đang mùa nước lớn. Chàng thi sĩ chứng kiến những cánh bèo, cành củi đang trôi nổi giữa dòng nước mênh mông mà gợi ngay lên một tứ thơ. Bao trùm bài thơ dường như là một nỗi buồn mênh mang vô tận của thi sĩ khi đứng trước thiên nhiên, đất nước và cuộc đời. Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra chất cổ điển rất riêng của Huy Cận. Nhà thơ dùng một từ Hán – Việt để đặt nhan đề cho bài thơ của mình. Từ Hán Việt có tác dụng lớn nhất là gợi ra không khí cổ điển, trang trọng và phảng phất chất Đường thi. Không những vậy thay vì dùng “Trường giang” Huy Cận biến âm dùng Tràng giang, hai âm “ang” được đặt liên tiếp là âm mở vừa gợi được cái dài rộng của không gian vừa gợi được cái mênh mang, bát ngát man mác xúc cảm trong lòng độc giả. Bên cạnh đó “Tràng giang” còn có sức khái quát.
Nó không phải là một con sông cụ thể nào, không phải con sông của đời thường mà dường như là con sông của lịch sử, của văn học, của thi nhân và còn là con sông cuộc đời. Bước qua nhan đề, người đọc lại gặp ngay lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” như bao trọn cảm hứng của toàn bài thơ. Đó là không gian của trời rộng sông dài, là cảm xúc của bâng khuâng thương nhớ. Thế cho nên nếu toàn bài thơ là không gian rộng lớn là cảm xúc thoáng buồn thì cũng hoàn toàn là hợp lý.
Trong mạch cảm xúc như thế khổ một mở ra một không gian sông nước rộng lớn mênh mang:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hình ảnh đầu tiên của bài thơ là hình ảnh những con sóng khẽ gợn, nối tiếp nhau đến vô cùng, vô tận, tầng tầng lớp lớp không dứt. Câu thơ sử dụng bút pháp “lấy động tả tĩnh” của văn học trung đại. Chuyển động của con sóng chỉ là “gợn” rất khẽ, rất nhỏ dường như tan đi trong cái không gian mênh mông của sông của trời. Con sóng đi cùng với tràng giang đã không còn là con sóng thực mà dường như mang một lớp nghĩa ẩn dụ mới. Nó gợi đến nỗi buồn trong tâm hồn con người trước sự dài rộng của không gian. Cùng với hình ảnh sóng nước là hình ảnh con thuyền đang lênh đênh xuôi theo dòng. Hình ảnh này như gợi đến kiếp sống nổi lênh của một lớp người bé nhỏ trong xã hội. Đây cũng là một thi liệu quen thuộc gần như đã trở thành chuẩn mực trong văn học. Trong thơ Đường, ta đã từng bắt gặp hình ảnh con thuyền và dòng sông đầy ám ảnh, trĩu nặng cái tình của người đưa tiễn:
Cô phàm viễn cảnh bích không tận
Duy kiến Trường giang thiên tế lưu
(Lí Bạch)
Khác chăng là con thuyền của Huy Cận không còn là con thuyền mang vẻ đẹp kĩ vĩ nữa mà nó thoáng vẻ mênh mang gợi cái chia lìa xa cách:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Con thuyền thì nhỏ bé, hữu hạn mà dòng sông thì rộng lớn vô hạn. Cái hữu hạn đối với cái vô hạn dường như càng tô đậm cảm giác nhỏ bé cô đơn. Hơn thế nữa thuyền và nước vốn là những sự vật gắn bó nước chảy thuyền trôi vậy mà ở đây lại bị chia tách với hai chuyển động ngược chiều về hai phía khác nhau. Cặp từ láy “điệp điệp”, “song song” ở hai câu thơ trước đã tô đậm ấn tượng về nỗi buồn mênh mang đang lan trên mặt nước, lại càng có tác dụng hơn khi tạo nên cấu trúc câu song ứng và rồi đến câu thơ thứ ba thì hai vế đối song ứng được dồn vào một câu thơ. “Thuyền về” đối với “nước lại” như nhấn vào cảm giác chia lìa đôi ngả. Và phải chăng vì sự chia lìa đó mà dòng sông tràng giang càng thêm u buồn lặng lẽ?
Nếu ba câu thơ đầu mở ra một không gian Đường thi mang đậm chất cổ điển thì câu thơ thứ tư lại mang dáng vẻ của thơ ca hiện đại:
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Trong thơ xưa nếu muốn gợi đến kiếp người nhỏ bé lênh đênh các nhà thơ thường dùng hình ảnh hoa trôi, bèo dạt. Huy Cận lại chọn hình ảnh một cành củi khô đang trôi dạt giữa dòng nước mênh mang để thể hiện điều đó. Biện pháp đảo ngữ cùng cách ngắt nhịp 1/3/3 càng như nhấn mạnh hơn vào cành củi khô, nhỏ bé, khô héo, cạn kiệt sức sống. Ý thơ này có lẽ vừa được khơi nguồn từ hình ảnh thực khi nhà thơ đứng ở bờ nam bến Chèm giữa mùa nước lớn, những cành cây khô trôi từ thượng nguồn về bến sông. Nhưng có lẽ nó còn mang một lớp nghĩa ẩn dụ khác. Nó gợi về một lớp người lúc bấy giờ trong xã hội. Ý thơ này càng được làm rõ hơn với từ “lạc” dường như là sự trôi nổi vô định, mất phương hướng. Một cành củi khô héo không sức sống mà vẫn bị giằng xé, chao đảo giữa dòng nước mênh mang của cuộc đời. Nó gợi đến hình ảnh một lớp người như nhà thơ trong xã hội xưa, những trí thức tiểu tư sản có ý thức về cái tôi nhưng lại bế tắc, mất phương hướng trước hiện thực xã hội bấy giờ. Hình ảnh này thể hiện sức sáng tạo của Huy Cận khi ông đã mang vào thơ một hình ảnh rất đời, rất thực tạo ra một hình ảnh mới giàu sức gợi, đậm chất hiện đại phá vỡ tính ước lệ và cổ xưa của thơ Đường. Như vậy khổ thơ thứ nhất đã gợi lên không gian mênh mông rộng dài của sông nước, gợi thân phận nhỏ bé mất phương hướng giữa cuộc đời của một lớp người, gợi được nét buồn phảng phất mênh mang. Đồng thời, khổ thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển lại vừa hòa quyện nét hiện đại mới mẻ, tạo nên một bức tranh thiên nhiên giàu sức gợi.
Nếu khổ thơ thứ nhất là cái nhìn cận cảnh của nhà thơ trước dòng sông mênh mông để thấy từng gợn sóng từng cành củi khô trôi dạt thì khổ hai là cái nhìn bao quát toàn cảnh sông dài, trời rộng đến bâng khuâng:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Hai câu thơ đầu đã vẽ lên khung cảnh buổi chiều trên sông nước. Cảnh thật vắng vẻ, tĩnh lặng. Nét bút chấm phá của Huy Cận đã phác họa nên một bức tranh sông nước mênh mang đến rợn ngợp. Nhà thơ điểm vào khoảng không gian rộng lớn ấy một vài chấm nhỏ để tạo nên sự tương phản gay gắt giữa vũ trụ bao la và những sự vật thật nhỏ bé:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Biện pháp đảo ngữ đẩy từ “lơ thơ” lên đầu đã nhấn mạnh vào cảm giác thưa thớt, nhỏ bé của những cồn cát. Cùng với đó là hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đứng ở đầu và cuối câu thơ như gợi ra cái hiu quạnh, vắng vẻ, lẻ loi, cô đơn của cảnh vật. Những cồn cát nhỏ ven sông trong cái gió đìu hiu của lau lách, hoang vu như làm dấy lên trong lòng người nỗi cô đơn, buồn vắng. Không gian tĩnh lặng ấy càng được nhấn:
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Chợ trong tâm thức người Việt gắn với tươi vui, bởi đó là nơi gặp gỡ, giao lưu của người dân xưa. Thế nên chợ vãn, chợ tàn sẽ gợi nên sự vắng vẻ, gợi nỗi buồn. Ở đây, nhà thơ của cảnh sắc quê hương tiếp tục dùng biện pháp lấy động để tả tĩnh. Âm thanh vang lên những lại chỉ là âm thanh từ xa vọng lại và cũng là âm thanh của chợ vãn nên dường như có như không, gợi cái tĩnh lặng hơn cái ồn ào, tấp nập. Từ “đâu” đứng ở đầu câu thơ tạo ra nhiều cách hiểu. Nó có thể là từ để hỏi như đâu đó tiếng chợ chiều vọng đến, cũng lại có thể là từ phủ định, làm gì có, đâu có đâu tiếng chợ chiều. Đến cả tiếng chợ vãn, chợ tan mà cũng như có như không thì bức tranh đó phải tĩnh lặng, buồn vắng tới mức nào. Một lần nữa bút pháp cổ điển lại giúp tác giả gợi được cái vô hạn của không gian và sự nhỏ bé của sự vật, cái tĩnh lặng của cảnh sắc với những âm thanh bé nhỏ của cuộc sống. Từ sự đối lập tương phản đó bức tranh buổi chiều, cảnh ngày tàn hiện lên:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Câu thơ đầu như một sự mở rộng về không gian. Huy Cận đã có sự quan sát tinh tế và kĩ càng để nhận thấy nắng càng xuống trời càng lên cao. Không gian như được mở ra hai chiều rộng dài đến bát ngát. Thêm nữa chuyển động trái chiều mang lại cảm giác mạnh cho người đọc về một không gian như được mở dần ra. Nhưng chưa dừng lại ở đó, “người dệt nên những vần thơ hàm súc, triết lí” đã có cách dùng từ ngữ thật sáng tạo. Nếu thông thường chúng ta dùng từ “chót vót” để gợi độ cao thì ở đây ông dùng từ này để chỉ độ sâu. Sự bất thường này lại mang đến một hiệu quả lớn. Bạn đọc như nhận ra một chiều khác nữa của không gian sông nước đó là chiều sâu, không gian được đẩy tới tận cùng tạo ra một chiều kích mới. Và phải sâu đến độ nào để thi nhân phải thốt lên “sâu chót vót”. Cụm từ sáng tạo này càng khiến cho khung cảnh thêm rợn ngợp, cái lẻ loi chống chếnh của con người càng được tô đậm thêm. Ở câu thơ sau một lần nữa các chiều kích của không gian được nhắc lại trong cái vô hạn của đất trời. Và không gian càng mở ra bao nhiêu thì cảm giác cô liêu càng được nhấn mạnh bấy nhiêu. Cái điểm dừng bé xíu của bến cô liêu như lạc giữa đất trời, như lẻ loi đến cô độc. Như vậy khổ thơ thứ hai trong cái nhìn bao quát taofn cảnh vật của thi nhân đã mở rộng không gian ra mọi chiều kích, tới không giới hạn để rồi nhìn lại con người càng thêm bé nhỏ, trống vắng và cô quạnh.
Hướng điểm nhìn vào hai bên bờ sông, chàng thi sĩ phát hiện ra hàng loạt những hình ảnh khác nhỏ bé của bến sông và dường như các hình ảnh này càng giúp thi nhân tô đậm sự buốn vắng, cô quạnh, chia lìa.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh bèo dạt rất quen thuộc và xuất hiện nhiều lần trong thơ ca truyền thống. Nhưng ở đây cánh bèo dạt vẫn gợi lên những cảm nhận mới. Hình ảnh này diễn tả một cách thấm thía sự hợp tan, chia lìa của những kiếp người chứ không chỉ gợi sự nhỏ bé mong manh, trôi dạt như trong thơ ca truyền thống. Bèo dạt hàng nối hàng như bao kiếp người lênh đênh trên dòng nhân thế. Cảm nhận về sự lênh đênh, trôi dạt vô định của một kiếp người càng khiến nỗi sầu tăng lên gấp bội trong lòng thi nhân. Ở khổ thơ này Huy Cận còn nhắc đến những chuyến đò và những cây cầu. Đây là những hình ảnh gợi sự kết nối, giao lưu. Vậy mà tác giả nhắc tới những sự vật đó, không phải là để khẳng định cái có mà là để miêu tả cái không có, không tồn tại trong bức tranh sông nước tràng giang. Không cầu, không đò hay chính là không có sự kết nối của con người, hay chính là sự cô đơn, hoang vắng đến tột cùng? Trong sự vắng lặng đó không gian vẫn tiếp tục được trải ra đến vô cùng của bờ xanh với bãi vàng. Bức tranh xuất hiện những gam màu vốn không đen tối nhưng lại chẳng thể làm cảnh sắc thêm tươi sáng, thêm sức sống. Dường như hai bờ sông là một thế giới tách biệt với những bờ bãi kia, những cánh bèo cũng vì thế mà chẳng biết trôi dạt về đâu. Trước một cảnh sắc như thế lòng người sao có thể vui tươi, háo hức. Hay cũng vì lòng người nhiều tâm tư trĩu nặng mà cái nhìn với cảnh cũng tấm đẫm ưu tư?
Từ sự dẫn đường đó, khổ thơ thứ tư bộc lộ rõ hơn tâm tình tác giả:
Lớp lớp mây cao đùn núi bác
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòn quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hai câu đầu của khổ thơ mang đậm ý vị của Đường thi, nhuốm màu sắc cổ điển. Đó là cảnh buổi chiều, cảnh hoàng hôn với cánh chim và chòm mây những thi liệu vô cùng quen thuộc trong thơ ca:
Chim bay về núi tối rồi (ca dao)
Chim hôm thoi thóp về rừng (Nguyễn Du)
Chúng điểu cao phi tận
Cô vẫn độc khứ nhàn (Lí Bạch)
Ở đây cánh chim và chòm mây một lần nữa thực hiện đúng chức năng của mình gợi ra buổi chiều nơi sông nước mênh mang. Cảnh sắc có cái hùng vĩ lên thơ với những lớp mây cao như những ngọn núi lấp lánh ánh bạc phía chân trời, với cánh chim chiều nghiêng bóng vội vã tìm về tổ ấm. Trong cái nghiêng của cánh chim dường như chở nặng cả bầu trời, bóng chiều rơi dần xuống. Câu thơ vừa quen thuộc vừa mới mẻ cho thấy cái tinh tế riêng của thi sĩ. Cánh chim nhỏ bé nghiêng bóng cũng một lần nữa nhấn mạnh sự tương phản giữa những thực thể nhỏ bé tồn tại trong bức tranh với không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ. Có lẽ sự tương phản ấy đã làm dấy lên trong lòng mỗi người đọc cảm giác tịch mịch, u bóng gợi nỗi buồn ẩn sâu nào đó trong mỗi chúng ta.
Hai câu thơ sau mượn ý thơ của Thôi Hiệu một nhà thơ nổi tiếng đời Đường trong bài Hoàng hạc lâu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Nếu Thôi Hiệu cần một màu khói để gợi nỗi nhớ nhà, nếu màu khói trong ý thơ xưa gợi không khí sum họp khiến người tha phương khát khao tình quê thì nay trong thơ Huy Cận không cần màu khói ấy nỗi nhớ nhà, tình yêu quê hương đất nước vẫn thường trực và trào sôi. Có lẽ tình yêu thầm kín mà da diết dành cho quê hương đất nước ẩn chứa trong tâm chàng thi sĩ đa sầu ấy đã làm lên một tứ thơ hay và xúc động đến vậy. Bài thơ khép lại với nỗi nhớ quê, với tình yêu nước sâu lắng đó và giá trị của tác phẩm có lẽ chính là ở đây chăng?
Tràng giang là một thi phẩm đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong trào thơ mới nói chung. Nó không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ, hồn thơ Huy Cận mà dường như nó còn thể hiện tâm tư của một lớp người lúc bấy giờ. Những con người nhỏ bé, bế tắc mất phương hướng trước dòng sông cuộc đời nhưng chưa bao giờ tâm hồn lìa bỏ khỏi quê hương, tình yêu quê hương đất nước vẫn chảy trong họ những một dòng sông mãnh liệt và bền vững để chống đỡ với những sóng gió của dòng sông cuộc đời. Vẻ đẹp của “Tràng giang” có lẽ còn ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và chất hiện đại làm nên một thi phẩm độc đáo.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ (Dàn ý + 2 Mẫu) Những bài văn hay lớp 11 của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.