Viết bài văn nghị luận về việc vay mượn – cải biến – sáng tạo trong một tác phẩm văn học là một đề tài rất hay nằm trong chương trình Ngữ văn 12 Kết nối tri thức tập 1.
Nghị luận về việc vay mượn cải biến sáng tạo trong tác phẩm văn học mang đến 2 bài mẫu siêu hay, ấn tượng nhất. Qua đó giúp các bạn học sinh có thêm nhiều gợi ý ôn tập, trau dồi kiến thức tự tin viết bài văn nghị luận hay. Ngoài ra các bạn xem thêm viết bài văn nghị luận về vấn đề liên quan đến tuổi trẻ.
Truyện ngắn sự tích Những ngày đẹp trời (Hòa Vang) được cải biên từ Sơn Tinh, Thủy Tinh
Trong “sự tích Những ngày đẹp trời” của nhà văn Hòa Vang, người đọc không khỏi bị cuốn hút bởi những nét sáng tạo độc đáo của tác giả, đặc biệt là trong việc xây dựng các nhân vật chính. Đó là những thay đổi đáng chú ý so với “nguyên mẫu” – truyện Sơn Tinh Thủy Tinh.
Về hình tượng nhân vật, đầu tiên là Thủy Tinh – vị thần hùng mạnh nhưng vốn là một kẻ độc ác, bạo tàn. Trong tác phẩm của Hòa Văng, Thủy Tinh đã được chuyển hóa thành một nhân vật đầy tình người. Tác giả đặc biệt tập trung vào việc khám phá nội tâm của chàng, để lộ ra một Thủy Tinh say đắm trong tình yêu dành cho Mỵ Nương. Thay vì chỉ là một kẻ thù tức giận và bất lực trước thất bại, Thủy Tinh giờ đây còn mang trong mình nỗi đau buồn, tuyệt vọng sâu sắc. Sự tái tạo này của Hòa Văng không chỉ giúp Thủy Tinh trở nên nhân đạo và đáng thương hơn, mà còn tạo nên một nhân vật đa chiều, phức tạp hơn rất nhiều so với truyền thuyết cổ.
Bên cạnh Thủy Tinh, nhân vật Mỵ Nương cũng được Hòa Văng xây dựng với những nét mới lạ. Thay vì chỉ là một công chúa thụ động tuân theo lệnh vua cha, Mỵ Nương giờ đây đã trở thành một phụ nữ với tâm hồn sâu sắc. Nàng không chỉ yêu quý Sơn Tinh vì những phẩm chất tốt đẹp của anh, mà còn thấu hiểu và thương cảm cho cả Thủy Tinh. Đặc biệt, trong hoàn cảnh bị chia cắt giữa hai người đàn ông, Mỵ Nương đã tự mình tìm đến Thủy Tinh để khuyên chàng hãy từ bỏ hận thù. Hành động này không chỉ thể hiện mong muốn hòa bình, hòa hợp của Mỵ Nương, mà còn khẳng định bà là một phụ nữ can đảm, độc lập và biết suy nghĩ vì cộng đồng.
Ngoài hai nhân vật chính trên, Sơn Tinh cũng được Hòa Văng miêu tả chi tiết và sống động hơn bao giờ hết. Anh không chỉ là một anh hùng mạnh mẽ, tài năng trong việc bảo vệ bờ cõi, mà còn là một người chồng yêu thương, quan tâm đến vợ. Qua đó, Hòa Vang đã góp phần làm cho hình ảnh của Sơn Tinh trở nên trọn vẹn, không chỉ là một con người tài giỏi mà còn là một nhân cách đáng kính.
Ngoài việc xây dựng các nhân vật chính, tác phẩm của Hòa Vang còn thể hiện sự sáng tạo ở một số khía cạnh khác. Không chỉ ca ngợi sức mạnh và trí tuệ con người, tác phẩm còn tôn vinh tình yêu, sự thấu hiểu và tinh thần hòa hợp. Điều này thể hiện rõ trong hình ảnh Mỵ Nương và những hành động của nàng. Về mặt nghệ thuật, Hòa Văng cũng gây ấn tượng với ngôn từ lãng mạn, trữ tình, miêu tả thiên nhiên sống động, gợi cảm, đồng thời khéo léo kết hợp các chi tiết hiện thực vào tác phẩm.
Những phát hiện về sự sáng tạo của nhà văn Hòa Vang trong tác phẩm “Sự tích những ngày đẹp trời” không chỉ giúp độc giả hiểu sâu hơn về tác phẩm, mà còn thấy được những giá trị nhân văn và nghệ thuật độc đáo mà tác giả muốn truyền tải. Đó chính là những điều làm nên sức hấp dẫn vượt thời gian của tác phẩm này.
Truyện Kiều (Nguyễn Du) cải biến từ Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân)
Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc được Thanh Tâm Tài Nhân viết vào đời Thanh, truyện được mang sang nước ta từ lâu và Nguyễn Du đã mượn cốt truyện mà viết nên Truyện Kiều bằng chữ Nôm. Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du sau này đã phổ biến và nổi tiếng hơn bản gốc ban đầu. Văn chương thế giới đã có nhiều trường hợp tương tự. Trường hợp thường được nhắc đến nhất là nhà soạn kịch tài danh của Pháp Corneille đã dùng Las Mocedades del Cid của Guillen de Castro, người Tây Ban Nha để viết nên tuồng Le Cid rất nổi tiếng…
Tuy mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện nhưng cách cải biên kì diệu của Nguyễn Du đã biến câu chữ tầm thường trở nên tác phẩm kiệt xuất, được mọi người yêu thích lại được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Nếu xét diễn biến của 2 truyện: từ khi Thúy Kiều gặp Kim Trọng; trải qua 15 năm lưu lạc cho đến ngày Kim-Kiều tái hợp; cả gia đình Vương Viên ngoại hạnh phúc đề huề, Kim Trọng, Vương Quan đỗ đạt, vinh hiển v.v… là tương tự nhau, song sức sáng tạo của Nguyễn Du rất lớn: nhiều tình tiết rườm rà, dung tục đã được lược bỏ, lại thêm vào nhiều đoạn kể chuyện, tả cảnh, tả tình ý vị khiến cho truyện trở nên cân đối, hợp lí. Đặc biệt nhất là tính cách của từng nhân vật trong Truyện Kiều khác nhiều so với Kim Vân Kiều truyện .
Người đọc nhận ra hai truyện khác xa nhau về tài năng xây dựng tính cách, tâm lí nhân vật, nghệ thuật biểu cảm, miêu tả, tự sự…đồng thời khác xa nhau về ý nghĩa, về tính người trong ứng xử. Khác hẳn Truyện Kiều của Nguyễn Du, đọc Kim Vân Kiều truyện của Tàu, người đọc mất hết cả cảm hứng với một nàng Kiều tài sắc nhưng dã man. Đâu đây thấp thoáng hình bóng những mỹ nhân diễm lệ mà vô cùng tàn ác trong sử sách Trung Quốc: Lã Hậu, Lệ Cơ, Triệu Phi Yến, Võ Tắc Thiên, Vạn Trân Nhi…
Kim Vân Kiều truyện mang tính cách luận đề với dấu ấn của tư tưởng Phật giáo: từ việc bố trí các nhân vật, sắp xếp diễn biến, tình tiết, kết cấu truyện theo hướng vào mục đích nhằm chứng minh cho đề thuyết: ác giả-ác báo : hễ gieo nhân xấu thì gặt quả dữ; nghiệp quả chồng chất sẽ phải trả. Trong Kim Vân Kiều truyện lại mô tả một nàng Kiều tàn ác đến man rợ. Rõ là Thanh Tâm tài nhân đã rơi vào mâu thuẫn nội tại – bởi làm sao hợp lí được khi đến hồi cuối cùng lại bố trí cảnh đoàn viên cho Thúy Kiều, một quả phúc không dành cho kẻ dữ. Sự mâu thuẫn, bất hợp lí này là điều là điều Thanh Tâm Tài Nhân đã chưa làm được trong Kim Vân Kiều tuyện. Với Nguyễn Du đã cải biên, hóa giải chốt mâu thuẫn thật kì diệu bằng cách để Kiều tha bổng Hoạn Thư.
Trong thơ Nguyễn Du, Kiều tùng phục lẽ phải, không vì tình riêng mà bỏ qua chân lí. Tính cách nhân vật lại hoàn toàn nhất quán, hiện rõ là người hiền lành lương thiện mà bị vùi dập đáng thương…
Trong Đoạn trường tân thanh , tư tưởng của Nguyễn Du trước hết thể hiện ở triết luận chữ tài — xuyên suốt tác phẩm và là nội dung quan trọng nhất. Đăng lên một triết luận chua chát ở đầu và cuối tác phẩm, đặt nhân vật Thúy Vân trong thế đối sánh với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du bày tỏ thái độ không thừa nhận tư tưởng tài mệnh tương đố và gợi người đọc băn khoăn về một nghĩa khác của chữ tài. Tài mà Nguyễn Du dùng để nói về Kiều (Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau) nếu hiểu là tài năng thì không thể lí giải nguyên nhân nỗi khổ của đời Kiều, nếu hiểu tài là tình thì chưa đủ thuyết phục vì Tam Hợp đạo cô đã từng nói Kiều khổ vì sắc sảo khôn ngoan cộng thêm với một chữ tình. Khi lí giải bằng tư tưởng triết học Trung Quốc đời Tống vể chữ tài cùng với quan niệm của người xưa về tài trong Từ điển Từ Hải (tài: tài năng/ thảo mộc chi sơ/lực), có thể hiểu rằng: Tài mà Nguyễn Du muốn nói là nguyên nhân nỗi khổ của Kiều (khi xung khắc với Mệnh) chính là năng lực sống (theo triết học đời Tống: Tính ví như mặt nước phẳng/ Tình là mặt nước nổi sóng, va động/ Tài là lực làm cho mặt nước nổi sóng ). Chính vì ham muốn sống mà những nhân dục” trong Kiều không phù hợp với “thiên lí” đương thời nên xã hội ấy vùi dập nàng là điều đương nhiên. Bản thân Nguyễn Du cũng nhận thấy ở con người thời đại một sức sống nồng nhiệt, say mê mà phần lớn là không được cuộc đời đáp ứng, cất tiếng kêu mới về khúc đoạn trường của Kiều cũng là cất lên tiếng nói thời đại…
Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam, là bông hoa rực rỡ trong vườn hoa văn học thế giới. Sự vay mượn, cải biến và sáng tạo của Nguyễn Du đã góp phần tạo nên giá trị trường tồn của tác phẩm.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Viết bài văn nghị luận về việc vay mượn – cải biến – sáng tạo trong một tác phẩm văn học Văn mẫu lớp 12 Kết nối tri thức của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.