Văn mẫu lớp 9: Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa tuyển chọn 16 mẫu hay nhất, kèm theo 3 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy.Quađó, giúp các em học sinh lớp 9thấy rõ được lòng nhiệt huyết, sự đam mê của tuổi trẻ.
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên trong trẻo, nhẹ nhàng, cùng lòng nhiệt huyết của những người lao động mới, dám nghĩ, dám làm, không ngại gian khổ. Mời các em cùng tải miễn phí bài viết dưới đây:
Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long
- Sơ đồ tư duy Phân tích Lặng lẽ Sa Pa
- Dàn ý Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa (3 mẫu)
- Phân tích Lặng lẽ Sa Pa ngắn gọn
- Phân tích Lặng lẽ Sa Pa chi tiết
- Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa hay nhất (14 mẫu)
Sơ đồ tư duy Phân tích Lặng lẽ Sa Pa
Dàn ý Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa
1. Mở bài: giới thiệu tác giả Nguyễn Thành Long, tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa
2. Thân bài: phân tích chi tiết tác phẩm
a. Cảnh sắc thiên nhiên Sa Pa
- Nắng đốt cháy rừng cây, mạ bạc con đèo…
- Cây hoa tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng.
- Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe.
=> Vài nét chấm phá điểm xuyết, nghệ thuật nhân hóa, so sánh -> Tác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Sa Pa với vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, thơ mộng, hữu tình. Miêu tả bức tranh thiên nhiên bằng ngôn ngữ trong sáng, mỗi chữ, mỗi câu như có đường nét, hình khối, sắc màu. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu mang âm hưởng một bài thơ về thiên nhiên đất nước.
- Có thể nói, vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa hoàn toàn tương xứng và hài hòa với vẻ đẹp của con người giàu chất mộng mơ, đầy ý nghĩa.
b. Nhân vật anh thanh niên
Hoàn cảnh sống và làm việc
– Hoàn cảnh sống và làm việc của anh thanh niên khá đặc biệt:
- Một mình sống trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, “bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo” => hoàn cảnh sống cô đơn, vắng vẻ, cô đơn đến mức “thèm người”.
- Công việc: làm công tác khí tượng, kiêm vật lí địa cầu, đo nắng, đo gió, đo mưa, tính mây, đo chấn động mặt đất dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày để phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu => Công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao.
- Công việc không khó nhưng giản khổ: bốn lần trong một ngày đêm đều đặn, dù mưa, nắng, gió, bão,…
Những phẩm chất tốt đẹp
– Lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm về công việc:
- Anh thanh niên hiểu rằng công việc mình làm tuy nhỏ bé nhưng liên quan đến công việc chung của đất nước, của mọi người.
- Làm việc một mình trên đỉnh núi cao,không có ai giám sát, thúc giục anh vẫn luôn tự giác, tận tụy: suốt mấy năm ròng rã ghi và báo “ốp” đúng giờ, phải ghi và báo về nhà trong mưa tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc 1h sáng, anh vẫn không ngần ngại.
- Anh đã sống thật hạnh phúc khi được biết do kịp thời phát hiện đám mây khô mà anh đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta trên bầu trời Hàm Rồng.
- Anh yêu công việc của mình, anh kể về nó một cách say sưa và tự hào.
- Với anh, công việc là niềm vui, là lẽ sống: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất” => anh đã thực sự tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong công việc thầm lặng giữa Sa Pa và sương mù bao phủ.
– Biết sắp xếp một cuộc sống một cách khoa học
- Anh chủ động, sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn nắp, đầy đủ, phong phú và thơ mộng: trồng hoa, nuôi gà, đọc sách…
- Trong cái cuộc sống lẻ loi của mình, ngoài công việc anh còn tìm thấy một niềm vui khác nữa – đó là đọc sách. Với anh, đọc sách không chỉ là nâng cao kiến thức mà còn để trò chuyện, để thanh lọc tâm hồn
– Sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách
- Vì “thèm người” mà anh đã đẩy một khúc gỗ ra chắn giữa đường, buộc xe khách đi qua phải dừng lại => niềm khao khát được gặp gỡ, được trò chuyện với mọi người
- Anh quan tâm đến người khác một cách thật lòng: gửi biếu vợ bác lái xe củ tam thất vì hôm nọ “bác chẳng bảo bác gái vừa ốm dậy là gì?”, đón tiếp ông họa sĩ và cô kĩ sư thật thân tình, nồng hậu
- Lòng mến khách của anh đã khiến ông họa sĩ xúc động: “người con trai ấy đáng yêu thật!”.
- Anh có cách sống đẹp và những suy nghĩ khiến chúng ta phải ngạc nhiên, khâm phục: Bác lái xe đùa anh là “người cô độc nhất thế gian” nhưng anh lại thổ lộ với ông họa sĩ: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia.” Và anh tâm sự cùng cô kĩ sư: “Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện nghĩa là có sách ấy mà”. Anh nhớ người nhưng không phải là nỗi nhớ phồn hoa đô thị bởi “người thì ai mà chả thèm, song mình sinh ra để làm gì? Mình đẻ ở đâu? Mình vì ai mà làm việc?” => Từ đó ta thấy thực chất của nỗi khát khao là được hòa nhập, được sống vì mọi người. Anh đã lập được những kì tích trong công việc, trong cuộc sống khiến ông họa sĩ cảm phục và xúc động.
– Sự khiêm tốn, thành thật
- Khi ông họa sĩ phác họa bức chân dung anh, anh đã khẩn khoản: “Không, xin bác đừng mất công vẽ cháu. Cháu không xứng đáng đâu, để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng vẽ hơn” => Anh cảm thấy mình là người bình thường trong muôn vàn những người khác.
- Dù còn trẻ tuổi nhưng anh đã thấm thía cái nghĩa, cái tình của mảnh đất Sa Pa nơi mà mình được sinh ra và lớn lên; thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những con người ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
- Có thể nói, qua cuộc gặp gỡ và trò chuyện, nhân vật anh thanh niên được khắc họa giản dị, khiêm nhường, đẹp trong suy nghĩ, trong cách sống và trong tâm hồn. Đó là nét vẽ đơn sơ, chân dung một con người có tầm vóc nhỏ bé mà nét mặt rạng rỡ.
c. Các nhân vật khác
Nhân vật ông họa sĩ
- Tuy không dùng cách kể ở ngôi thứ nhất nhưng hầu như người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát và miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của chuyện. Từ đó, gửi gắm suy nghĩ về con người, về nghệ thuật.
- Ngay từ những phút ban đầu gặp gỡ anh thanh niên, bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông đã xúc động và bối rối.
- Ông muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kí họa và “người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá”. Những xúc cảm và suy tư của nhân vật ông họa sĩ về người thanh niên và về những điều khác nữa được gợi lên từ câu chuyện của anh làm cho chân dung nhân vật chính thêm sáng đẹp và chứa đựng những chiều sâu tư tưởng.
Nhân vật cô kĩ sư
- Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, cả những chuyện anh kể đã khiến cô vô cùng bàng hoàng. Cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm, tuyệt đẹp của người thanh niên, về thế giới những con người như anh và quan trọng hơn nữa là về con đường cô đã lựa chọn, cô đang đi tới. Đây là cái “bàng hoàng” đáng lẽ cô phải biết khi yêu, nó giúp cô đánh giá đúng hơn mối tình nhạt nhẽo mà cô đã từ bỏ và yên tâm hơn về quyết định của mình. Đó là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi người ta gặp được những ánh sáng đẹp đẽ tỏa ra từ cuộc sống, từ tâm hồn của người khác.
- Cùng với sự “bàng hoàng” ấy, là một tình cảm hàm ơn với người thanh niên không phải chỉ vì bó hoa to mà anh tặng cô một cách hết sức vô tư mà còn vì “một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”.
Bác lái xe
Có vai trò giới thiệu nhân vật chính với ông họa sĩ và cô kĩ sư. Chính điều này, đã tạo ra sự thu hút chú ý của người đọc. Qua cảm xúc, suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi nhiều luồng ánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều màu sắc.
Ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa
Kiên trì, bền bỉ, làm việc trong âm thầm lặng lẽ “ngày này sang ngày khác”. Ông ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào. Và tự ông đi thụ phấn cho từng cây su hào để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc ăn được to hơn, ngọt hơn. Ông kĩ sư làm cho anh thanh niên cảm thấy cuộc đời đẹp quá! Công việc thầm lặng ấy chỉ những con người nơi mảnh đất Sa Pa mới hiểu hết được ý nghĩa của nó.
Anh kĩ sư bản đồ sét
Anh luôn ở trong tư thế sẵn sằng suốt ngày chờ sét “nửa đêm mưa gió,rét buốt,mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra”. Anh đã hi sinh hạnh phúc cá nhân vì niềm đam mê công việc để khai thác “của chìm nông, của chìm sâu” dưới lòng đất làm giàu cho Tổ quốc.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
….
Phân tích Lặng lẽ Sa Pa ngắn gọn
Tác giả Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên về truyện ngắn xuất sắc, các tác phẩm nổi tiếng của ông như: Giữa trong xanh (1972), Lý Sơn mùa tỏi (1980). Và đoạn trích “Lặng lẽ Sa Pa” được rút ra từ tập truyện “Giữa trong xanh”. Truyện được viết vào một chuyến nhà văn đi công tác lại Lào Cai, ca ngợi những con người sống ở nơi non xanh lặng lẽ đang ngày đêm cống hiến thầm lặng cho Tổ quốc.
Mở đầu tác phẩm là bức tranh thiên nhiên đầy chất thơ của mảnh đất Lào Cai – nơi miền Tây Bắc của Tổ quốc, nơi đây không hề mang vẻ hoang vu mà trái lại còn rất hữu tình và tráng lệ. Xe của đoàn vừa “trèo lên núi” đã thấy “mây hắt từng chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng”, trạm dừng là nơi “con suối có thác trắng xóa”, những cây thông “rung tít trong nắng”,…Trên nền của bức tranh thiên nhiên ấy, hiện lên hình ảnh cuộc sống của con người, làm cho bức tranh càng thêm nồng nàn, ý vị “nắng chiều làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo”.
Trong chuyến xe lên Lào Cai ấy, có bác lái xe vui tính, cởi mở và nhiệt tình với hành khách; có ông họa sĩ già nhưng vì tình yêu nghệ thuật nên vẫn khao khát những chuyến đi thực tế tìm kiếm cái đẹp, lúc nào ông cũng trăn trở một điều “phải vẽ được một cái gì suốt đời mình thích”; bên cạnh đó là cô kĩ sư trẻ mới ra trường, tinh thần hăng hái xung phong lên Lào Cai công tác, bước vào cuộc sống bát ngát sau những năm tháng đại học khiến cho cô rất háo hức. Tại Sa Pa đoàn khách của tác giả đã được biết đến ông kĩ sư ở vườn rau, suốt đời làm việc nghiên cứu và lai tạo giống cây trồng phục vụ dân sinh và xuất khẩu.
Đồng chí ấy đã mười một năm không một ngày xa cơ quan, bỏ mặc hạnh phúc riêng tư. Tiêu biểu nhất cho con người nơi đây chính là anh thanh niên 27 tuổi làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu tại đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét. Sống một mình trên đỉnh núi, anh thanh niên theo lời giới thiệu của bác lái xe là “người cô độc nhất thế gian”. Công việc của anh là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” phục vụ cho sản xuất và chiến đấu. Hoàn cảnh làm việc một mình, đôi lúc thời tiết khắc nghiệt như bão tuyết, mưa rét nhưng anh vẫn một mình xách đèn bão ra vườn lấy số liệu.
Chẳng cần có người giám sát, thúc giục, anh thanh niên vẫn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao. Anh còn là một người rất lạc quan, yêu đời và có lối sống khoa học, sống một mình nhưng vẫn trồng hoa, chăn gà và đọc sách. Anh cũng rất nhiệt thành và chu đáo với mọi người, đồng thời rất khiêm tốn. Anh là tấm gương về một con người có lý tưởng sống đẹp, vì quê hương đất nước mà quên đi bản thân mình. Tóm lại những nhân vật trên đã tạo nên bức chân dung về những con người sống đẹp, hy sinh thầm lặng và cống hiến hết mình vì sự nghiệp của đất nước.
Có thể thấy, truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” như một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi rất trong sáng và nhẹ nhàng. Trên nền cảnh của thiên nhiên núi rừng Sa Pa, những con người hiện lên thật đáng yêu, đáng quý và đáng trân trọng.
Phân tích Lặng lẽ Sa Pa chi tiết
Nhạc sĩ Trần Long Ẩn từng có trong mình nỗi khắc khoải rằng:
“Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng
Gian khổ biết giành phần ai”
Thì nhà thơ Thanh Hải đã tự nguyện lấy tuổi trẻ của mình để dâng cho đời, dâng cả “mùa xuân nho nhỏ” của mình cho đất nước, cho quê hương. Và rồi có một “mùa xuân nho nhỏ” tuổi 20 lặng lẽ hiến dâng cho đời tuổi trẻ, công sức và trí tuệ của mình cho đất nước như thế trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.
Tình huống được Nguyễn Thành Long xây dựng nên đó là cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và tình cờ của anh thanh niên làm việc một mình trên trạm khí tượng với bác lái xe và hai hành khách trên chuyến xe ấy. Nhân vật chính của tác phẩm là anh thanh niên nhưng anh không trực tiếp kể câu chuyện này mà thông qua cuộc hội thoại giữa các nhân vật. Nhân vật được hiện lên trong khoảnh khắc với một số nét đẹp về phẩm chất: suy nghĩ đẹp, hành động đẹp và phong cách sống đẹp nhưng chưa được xây dựng tính cách hoàn chỉnh và chưa có cá tính nổi bật.
Các nhân vật phụ có vai trò làm nổi bật lên nhân vật chính, các nhân vật thì thường không có tên và dường như điều đó là cả ẩn dụ của tác giả, tác giả ý muốn nói đến những người vô danh đang ngày đêm thầm lặng, say mê cống hiến cho quê hương, đất nước.
Anh thanh niên 27 tuổi làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét. Quanh năm suốt tháng làm việc với sương mù và cây cỏ. theo như lời giới thiệu của anh lái xe thì anh là người “cô độc nhất thế gian”. Anh thèm người đến mức từng chặt cây ngáng đường xe chạy chỉ để được trông và nghe tiếng người nói mà thôi.
Công việc chính của anh là anh làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. công việc hằng ngày chỉ quanh quẩn với mấy chiếc máy ngoài vườn với nhiệm vụ đo lượng nắng, đo gió, đo mưa và tính giây, đo chấn động mặt đất, dự báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất và chiến đấu, công việc đòi hỏi tính phải chính xác, có tinh thần trách nhiệm cao.
Tuy vậy, dù công việc có phần nhàm chán và tẻ nhạt lại còn cô đơn một mình nhưng anh chưa bao giờ cảm thấy cô đơn và buồn, anh luôn nghĩ rằng “ta với công việc là đôi, công việc gắn liền với việc của bao nhiêu anh em, đồng chí đang làm dưới kia, công việc gian khổ thế đấy nhưng cứ cất nó đi cháu đến chết mất”. điều này cho thấy anh là con người sống và chiến đấu hết mình, không bao giờ cho mình được nghỉ ngơi, bởi công việc là niềm vui, là trách nhiệm, là nghĩa vụ, nếu mình chỉ cần sơ sẩy, không chú ý một lúc thôi là hậu quả hết sức khôn lường, ảnh hưởng tới cả một hệ thống, cả kế hoạch của ta.
Anh là người tràn trề nghị lực, vượt qua mọi cô đơn, gian khổ, gắn bó với công việc. 4 năm nay anh chưa một lần nghỉ phép về nhà, chưa bỏ sót lấy một lần nào việc bỏ sót những con số để báo cáo về cơ quan cho anh em, đồng đội, đồng nghiệp phân tích và tính toán. Anh là người yêu sách và ham đọc sách, anh không cảm thấy cô đơn vì biết tổ chức, sắp xếp cuộc sống của mình khoa học, trồng hoa, nuôi gà, trồng cây thuốc quý, nhà cửa ngăn nắp, gọn gàng. Anh không để mỗi phút, mỗi giây anh ở đây còn sống và cống hiến thì anh không thể bỏ sót và lãng phí được.
Tính cách, phẩm chất đáng quý, sự cởi mở, chân thành, quý trọng tình cảm của mọi người, anh còn là người khiêm tốn, thành thực, là người ân cần, chu đáo, hiếu khách, anh cảm thấy vui sướng khi việc của mình làm không những góp phần cho sản xuất và còn đóng góp cho việc đấu tranh chống Mỹ thắng lợi. Anh thanh niên là tiêu biểu cho hàng ngàn thanh niên ngày đêm thầm lặng cống hiến cho đất nước.
Tác giả đã tài tình xây dựng tình huống truyện hợp lý, cách kể chuyện tự nhiên, có sự kết hợp giữa tự sự, miêu tả và bình luận. Nguyễn Thành Long đã góp một tiếng nói ca ngợi cuộc sống và tái hiện một cách đầy đủ vẻ đẹp của con người qua nhân vật anh thanh niên. Khẳng định con người lao động có ý nghĩa thầm lặng, niềm hạnh phúc của con người trong lao động có ích
Trong không khí đất nước đang náo nức và tưng bừng, phấn khởi để xây dựng và phát triển đất nước trong thời bình theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là một thanh niên của thế hệ mới, chúng ta cần phải ra sức học tập và lao động hăng say để có thể đưa đất nước đi lên, sánh vai cùng với 5 châu bốn biển trên thế giới được.
Với nhan đề vừa mâu thuẫn nhưng lại vô cùng hợp lý, “lặng lẽ” những con người nơi đây đang âm thầm và làm việc một cách khẩn trương, để kịp hoàn thành nhiệm vụ giao cho cấp trên, lao động một cách hăng say, đầy nhiệt huyết của một tuổi trẻ đang trong độ tuổi nhiệt huyết nhất, công việc thầm lặng của họ lại có ý nghĩa lớn lao, đáng được tôn vinh. Truyện ngắn là tiếng nói, là bản hùng ca nhưng lại chỉ lặng lẽ, để mọi người hiểu và yêu mến những con người này thôi, tác giả hay anh thanh niên chưa bao giờ nghĩ mình sẽ được đền đáp, công việc của mình lại có ý nghĩa to lớn như vậy.
Bên cạnh nhân vật chính thì còn có sự xuất hiện của các nhân vật khác, đó là bác lái xe, cô kỹ sư trẻ, bác họa sĩ. Truyện được kể theo ngôi kể thứ ba nhưng lại được nhìn theo điểm nhìn của ông họa sĩ. Hầu như người kể chuyện đã nhập vào điểm nhìn và tư tưởng của ông họa sĩ để quan sát và miêu tả cảnh thiên nhiên. Qua cảm xúc và suy nghĩ của ông họa sĩ thì nhân vật anh thanh niên được hiện lên rõ nét, đẹp hơn và có chiều sâu về tư tưởng.
Cô kỹ sư cũng là một hình tượng đẹp, một bức chân dung sáng ngời về tuổi trẻ tài cao và dám chinh phục ước mơ của mình. Trong cuộc gặp gỡ với anh thanh niên, những điều anh kể, những gì cô nghe thấy, khiến cô gái cảm thấy “bàng hoàng” cô hiểu thêm về cuộc sống phải sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của anh thanh niên. Về thế giới của những người như anh. Đây là cái “bàng hoàng” lẽ ra cô nên biết từ lâu mà giờ cô mới biết, nó giúp cô đánh giá đúng hơn về mối quan hệ nhạt nhẽo mà cô đã từ bỏ.
Với cô, anh thanh niên giống như là người đi trước, khiến cô cảm thấy vững vàng hơn, tự tin hơn trên hành trình mà cô đã chọn, bên cạnh sự bàng hoàng thì đó là sự hàm ơn, nó không phải chỉ vì bó hoa mà còn vì một “bó hoa nào khác, bó hoa của một háo hức và hạnh phúc ngẫu nhiên anh cho thêm cô”.
Qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” ta thấy được tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh tuổi trẻ của mình để cống hiến trí tuệ và sức lực của mình vào sự nghiệp chung của đất nước. Những lời thơ của Tố Hữu là lời đúc kết về con đường mà thế hệ thanh niên chúng ta đang đi:
“Hỡi những chàng trai, những cô gái yêu
Trên những tầng mây, những tầng núi đá
Hai bàn tay ta làm nên tất cả”
Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa hay nhất
Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 1
Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, nhân vật ông hoạ sĩ già ít được bạn đọc chú ý tới. Có phải vì đó chỉ là một nhân vật phụ? Song, nếu biết lắng lại trong cảm xúc, tìm tới những mạch sau ý nghĩa của ngôn từ, cội nguồn cảm hứng của nhà văn, chúng ta sẽ thấy ông họa sĩ không là người phụ. Ông vừa là nhân vật tham gia câu chuyện, đẩy các sự việc, tình tiết tiến tới, vừa là người kể chuyện. Dường như chính tác giả Nguyễn Thành Long hóa thân vào người nghệ sĩ cao tuổi, giàu kinh nghiệm, say mê sự nghiệp sáng tạo ấy để gửi tới bạn đọc những điều tâm đắc nhất về cuộc sống, về con người. Một trong những điều tâm đắc nhất phải chăng đã được biểu hiện trong giây phút xáo động tâm hồn của nhà hoạ sĩ. Khi trò chuyện với anh thanh niên làm việc tại trạm khí tượng, ông đã nghĩ: “Những điều suy nghĩ đứng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác…”. Vậy, những vang âm nào đã ngân lên từ tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”.
Trước hết, đó là vang âm của cuộc gặp gỡ giữa ông hoạ sĩ, cô kĩ sư nông nghiệp và anh thanh niên khí tượng. Làm một công việc âm thầm, lặng lẽ, trên đỉnh núi cao hai ngàn sáu trăm mét, giữa mênh mông đất trời, sương tuyết, anh thanh niên vẫn yêu đời, đầy trách nhiệm, cần cù, dũng cảm. Anh không để xảy ra sơ suất nào trong nhiệm vụ đã dành, anh còn biết tự tạo một cuộc sống nền nếp, phong phú và thơ mộng: nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. Thỉnh thoảng xuống núi, anh tìm gặp bác lái xe, cùng khách các đoàn để thăm hỏi, giúp đỡ, để vơi bớt nỗi cô đơn, nỗi “nhớ người”…Con người ấy đã biết sống một cuộc sống thật đẹp, thật phong phú, một cuộc sống làm chủ mình, giúp ích cho đời. Kể về một lần nhờ anh góp phần phát hiện một đám mây khô nên không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực, anh đã sung sướng nói với ông hoạ sĩ: “Từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc”. Ý thức sâu sắc mục đích việc mình, say mê làm việc để đạt hiệu quả, thấm thìa niềm vui, tìm được hạnh phúc trong cuộc sống, phong cách sống ấy của anh thanh niên khí tượng khiến ông hoạ sĩ xúc động nhủ thầm “người con trai ấy đáng yêu thật”. Phải chăng đó chính là những vang âm từ một cách sống? Đối với ông hoạ sĩ, anh thanh niên không chỉ đáng yêu vì cách sống mà còn vì những điều anh suy nghĩ. Đó cũng là những âm vang vừa có chiều sâu vừa có sức khơi gợi. Thứ nhất, về quan niệm “người cô độc”, anh nói với bác hoạ sĩ: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi… huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia”. Thứ hai, về nỗi “nhớ người”, anh cho rằng: “người thì ai mà chả “thèm”… Mình sinh ra làm gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?”. Thứ ba, về vị trí cuộc sống, về ấn tượng mà mỗi con người tạo ra trong đời, anh luôn luôn cảm thấy mình nhỏ bé, bình thường so với nhiều người khác. So độ cao nơi ở, anh không bằng người bạn “trên trạm đỉnh Phăng-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét”. Tìm một chân dung cho tác phẩm hội hoạ, anh giới thiệu ông kĩ sư vườn rau, ngày này sang ngày khác rình xem cách ong thụ phấn cho su hào để nâng cao năng suất trồng rau; rồi một người làm công tác nghiên cứu khoa học, mười năm không một ngày xa cơ quan, luôn trong tư thế sẵn sàng đợi sét để lập bản đồ sét, tìm cho ra của chìm dưới lòng đất của Tổ quốc. Thứ tư, về vùng đất anh đang sống và làm việc mà anh thấu hiểu hơn ai hết: “Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”. Thế đấy, mỗi suy nghĩ của con người trẻ tuổi ấy đều thấm đẫm tình yêu con người, yêu cuộc sống, yêu mến và tự hào về mảnh đất mình đang sống. Chính những suy nghĩ và tình cảm ấy đã trở thành sức mạnh, thành điểm tựa để anh làm việc, học tập, vươn lên những đỉnh cao trong cuộc sống. Anh biết sống cho một sự nghiệp lớn lao là công cuộc xây dựng đất nước, cũng biết sống cho riêng mình và chia sẻ với mọi người. Vì thế, gặp gỡ, trò chuyện với anh, ông hoạ sĩ cảm thấy “nhọc quá”,cô kĩ sư nông nghiệp dạt lên trong lòng “một ấn tượng hàm ơn”…
Trước anh chàng trẻ tuổi đáng yêu, ông họa sĩ ngỡ như lồng ngực có thêm một quả tim nữa, hay chính là quả tim cũ được “để cao” lên? Đang bước vào tuổi già, tuổi của những nghỉ ngơi, ông bỗng trẻ lại, thấy yêu thêm cuộc sống, khao khát sống, khao khát sáng tạo. Vừa nói chuyện, ông vừa kí hoạ. Bàn tay ông như có thần, trái tim rung động, trí tuệ minh mẫn, suy nghĩ bao nhiêu điều tốt lành về cuộc sống, con người và mảnh đất Sa Pa. Như vậy, cảm giác “nhọc mệt” của người nghệ sĩ ấy chính là một niềm vui, niềm hạnh phúc. Còn cô kĩ sư nông nghiệp, cái ấn tượng hàm ơn dạt lên trong lòng là những gì? Có phải đó cũng là những thu lượm bổ ích, phong phú, tươi non về nhận thức, về tâm hồn? Từ lúc bắt đầu lên xe, rồi được gần ông hoạ sĩ, được ông giúp đỡ, chăm sóc như với con gái, đến khi thăm vườn hoa, căn nhà và trò chuyện với anh khí tượng, cô gái hiểu ra bao nhiêu điều về cuộc sống. Cô hiểu anh thanh niên, hiểu cái thế giới những con người mà anh kể, và quan trọng, thiêng liêng sâu sắc nhất là “cô hiểu con đường cô đang đi tới”. Cô gái bàng hoàng, xúc động như giây phút tuổi trẻ đón nhận một tình yêu, tình yêu đích thực, chứ không phải mối tình nhạt nhẽo, sai lầm vừa qua. Cô yên tâm và tin tưởng ở con đường mình đang đi tới, ở công việc mình đã lựa chọn. Do đó, khi ôm bó hoa anh thanh niên tặng, cô gái hồi hộp và sung sướng vì nhận được một kỉ niệm đẹp của một tấm lòng, cũng “vì một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mộng mơ” đang bừng nở với muôn vàn hương sắc trong tâm hồn cô. Cô kĩ sư nông nghiệp đã “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Tuy là hai nhân vật phụ, cô kĩ sư cũng như ông hoạ sĩ vẫn được nhà văn trân trọng gửi gắm nhiều ý tưởng. Hình ảnh cuối cùng của họ – “Ông xách cái làn trứng, cô ôm bó hoa to. Lúc bấy giờ, nắng đã bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiều làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ” – hệt như một bức tranh óng ánh sắc màu. Có thể nói, cuộc gặp gỡ của ba nhân vật giữa mịt mờ sương tuyết mà vẫn nồng ấm tình người, y như một mối duyên kì ngộ. Chỉ tiếp xúc trong ba mươi phút, họ đủ hiểu nhau, tỏa sáng cho nhau, khơi gợi trong nhau biết bao điều bổ ích. Điều bổ ích lớn lao nhất cho cả ba con người thuộc hai thế hệ khác nhau là sự ý thức về vị trí, trách nhiệm mỗi con người trong công cuộc dựng xây đất nước. Dù họ chia tay nhau, điều bổ ích ấy vẫn vang trong họ và từ họ, vang âm sang người đọc chúng ta.
Thực ra, những vang âm của tác phẩm không đợi đến cuộc gặp gỡ giữa ba nhân vật ở phần hai. Nó ngân nga, nhẹ nhàng, ấm áp ngay trong những dòng đầu, khi bác lái xe giới thiệu đã vào Sa Pa, khi những nhân vật bắt đầu gặp gỡ, chuyện trò. Họ nói về phong cảnh Sa Pa, về những hoạ sĩ đã quá cố, rồi về cuộc sống, con người ngày nay. Cảnh Sa Pa cứ hiện dần, mỗi lúc một đẹp đẽ, mơ màng. Những nhân vật cũng được khắc họa rõ nét dần. Cánh thơ mộng, người mộng mơ. Tất cả, từ bác lái xe, đến các hành khách, ông hoạ sĩ, cô kĩ sư… Dường như trên chuyến xe ấy, mọi người đang đi tìm một điều gì thật giản dị nhưng cũng thật là thiêng liêng, những khát vọng, những háo hức… Đọc văn, có cảm giác được lần lần ngắm những tác phẩm hội hoạ lung linh kì ảo: “Nắng bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng, Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương rơi”. Ôi, phong cảnh đẹp biết nhường nào! Còn con người thì, như ta đã thấy, mỗi chân dung, mỗi lời nói, ý nghĩa, hành động đều như ngân lên những vang âm ngọt ngào, êm ái. Mỗi chữ, mỗi câu trong tác phẩm có hình khối, đường nét, màu sắc… đậm đà chất hội hoạ. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu, âm thanh, êm ái, mang âm hưởng của một bài thơ…
“Lặng lẽ Sa Pa” – mới đọc tên, ngỡ tác phẩm nói về một điều gì… im ắng, hắt hiu, giá lạnh. Vậy mà, thật kì diệu, trong cái lặng lẽ của Sa Pa vẫn vang ngân lên những âm thanh trong sáng, vẫn ánh lên những sắc màu lung linh, lan tỏa hơi ấm tình người và sự sống, sự sông những rừng cây, những đóa hoa, những tấm lòng nhân hậu. Chính những vang âm, sắc màu và hơi ấm của một vùng lặng lẽ ấy đã khơi gợi trong biết bao lớp người đọc tác phẩm này tình yêu Tổ quốc, tình yêu con người, những con người đã một thời biết sống đẹp, suy nghĩ đẹp, để từ đó mà hướng tới, tìm cho mình một vẻ đẹp riêng trong sự sống, cách sống mỗi con người.
Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 2
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được Nguyễn Thành Long sáng tác năm 1970. Lúc này miền Bắc đang trong thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương lớn cho miền Nam. Trong chuyến đi thực tế dài ngày ở Lào Cai, được trực tiếp hòa mình vào cuộc sống lao động, chiến đấu của con người nơi đây tác giả đã viết lên tác phẩm này. Tác phẩm là lời khẳng định về vẻ đẹp của người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng đối với Tổ quốc.
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa có cốt truyện hết sức đơn giản, xoay quanh tình huống là cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ và anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Qua tình huống ấy vẻ đẹp phẩm chất của các nhân vật dần dần được hé mở.
Mở đầu tác phẩm là khung cảnh Sa Pa vô cùng nên thơ, trữ tình với những rặng đào, những đàn bò lang cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường, khiến mọi người ngỡ ngàng trước đẹp một cách kì lạ của mảnh đất này. Những hàng thông xanh rì rung tít trong nắng như những ngón tay bằng bạc, cây tử quang, với ánh nắng vàng tươi len tới đốt cháy rừng cây, rồi tinh nghịch xua mây cuộn tròn lại thành từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương. Vẻ đẹp huyền ảo của mây khói hòa trong màu xanh rì của các loài cây đã tạo nên chất thơ, chất trữ tình cho tác phẩm. Đến với căn nhà nhỏ của anh thanh niên, người đọc cũng không khỏi ngỡ ngàng, bất ngờ trước vườn hoa rực rỡ màu sắc: hoa dơn, hoa thược dược,… những con ong cái bướm dập dờn bay lượn. Thiên nhiên nơi đây thật đa dạng, phong phú, nó là sự hòa quyện của vẻ đẹp nên thơ với vẻ hùng vĩ.
Trong bức tranh thiên nhiên ấy, anh thanh niên hiện lên thật đẹp đẽ, mang trong mình những phẩm quý báu, đáng trân trọng. Anh thanh niên làm việc trên đỉnh Yên Sơn quanh năm suốt tháng mây mù bao phủ. Công việc của anh là đo gió, đo mưa, tính mây,.. dự báo thời tiết hàng ngày để phục vụ cho sản xuất và chiến đấu. Công việc của anh tuy thầm lặng, những có ý nghĩa to lớn với sản xuất, chiến đấu.
Anh thanh niên trước hết là người thiết tha yêu cuộc sống. Tình yêu cuộc sống ấy thể hiện qua tình cảm gắn bó, sự quan tâm chân thành của anh với những người xung quanh. Những ngày đầu mới lên công tác, anh nhớ và thèm người nên đã đẩy khúc gỗ chắn ngang đường để xe dừng lại. Hành động ấy của anh cho thấy khao khát được giao tiếp, được sẻ chia, trò chuyện với mọi người. Không chỉ vậy những hành động nhỏ của anh như đưa củ tam thất cho bác lái xe, tặng hoa hay giỏ trứng cho những người lần đầu gặp gỡ lại càng cho thấy rõ trái tim biết yêu thương và sẻ chia với những người xung quanh. Anh thanh niên là người có trái tim nhân hậu, biết yêu thương và sẻ chia với mọi người. Trong hoàn cảnh sống cô đơn, chỉ có một mình làm bạn với cây cỏ nhưng anh luôn bộc lộ tinh thần lạc quan. Anh trồng hoa trước nhà, chăn nuôi để xua đi cuộc sống nhàm chán, buồn tẻ. Anh tổ chức cuộc sống gọn gàng, ngăn nắp khiến cho ông họa sĩ cũng phải ngỡ ngàng, bất ngờ. Không chỉ vậy anh còn làm giàu có vốn tri thức của bản thân bằng việc đọc sách hàng ngày. Dù cuộc sống vật chất còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng anh thanh niên biết cách vượt lên, tìm cách làm phong phú đời sống tinh thần cho bản thân.
Vẻ đẹp phẩm chất của anh thanh niên còn thể hiện ở phương diện anh là người sống có lí tưởng, có niềm say mê và trách nhiệm với công việc. Dù tuổi đời còn trẻ, anh không sợ cái buồn, anh chấp nhận sống và làm việc trên đỉnh núi cao mấy nghìn mét. Hẳn là anh phải có tình yêu công việc tha thiết mới chấp nhận và có thể vượt lên nỗi cô đơn để nhận nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Anh có những quan niệm về công việc và hạnh phúc rất đẹp: ta với công việc là đôi hay niềm hạnh phúc của anh là khi làm việc, dự báo thời tiết chính xác giúp người nông dân sản xuất, giúp không quân bắn rơi máy bay địch. Dù công việc gian nan, có những lần đi ốp vào một giờ sáng, mưa gió cũng không làm anh chùn bước, anh vượt qua cái gió, cái lạnh để hoàn thành công việc của mình. Anh là người có trung thực và ý thức trách nhiệm cao cả với nghề. Tất cả những vẻ đẹp ấy đều bắt nguồn từ lí tưởng sống đẹp của anh: anh muốn góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Anh không thấy cô đơn lẻ loi vì luôn có những người đồng nghiệp đồng hành bên anh như ông kĩ sư vườn rau, cán bộ lập bản đồ sét. Tất cả họ đều kiên trì, bền bỉ và thầm lặng với công việc của mình. Anh thanh niên là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của những người đang thầm lặng góp sức xây dựng cuộc sống mới cho quê hương, đất nước.
Ngoài nhân vật anh thanh niên ta cũng không thể nhắc không đến một ông họa sĩ dày dặn kinh nghiệm sống, có tình yêu tha thiết với công việc. Dù tuổi đã cao nhưng trước khi về hưu ông vẫn muốn đi tìm cảm hứng nghệ thuật cho mình. Ông là người có tâm hồn nhạy cảm để phát hiện ra vẻ đẹp Sa Pa và con người nơi đây. Ông họa sĩ hội tụ đầy đủ vẻ đẹp phẩm chất của người họa sĩ chân chính. Cô kĩ sư trẻ xuất hiện góp phần tô đậm vẻ đẹp của anh thanh niên nhưng cũng là nét vẽ không thể thiếu về vẻ đẹp của con người mới. Cô mang trong mình lí tưởng cao cả, nhiệt huyết tuổi trẻ: bỏ lại mối tình nhạt nhẽo, xa gia đình xung phong công tác ở vùng núi cao. Cô mang trong mình bản lĩnh nghị lực phi thường. Bên cạnh đó cũng cần nhắc đến ông kĩ sư vườn su hào, cán bộ bản đồ sét những con người cống hiến thầm lặng cho đất nước.
Tác phẩm được trần thuật ngôi thứ ba, các nhân vật được nhìn nhận một cách khách quan, chân thực. Truyện có sự kết hợp giữa tự sự, miêu tả và bình luận, làm cho tác phẩm sâu sắc hơn. Ngoài ra tác phẩm thẫm đẫm chất trữ tình, với ngôn ngữ nhẹ nhàng, giản dị, chân thực, giàu chất suy tư.
Lặng lẽ Sa Pa là thiên truyện ngắn giàu chất trữ tình, bàng bạc chất thơ. Tác phẩm đã xây dựng thành công vẻ đẹp của thế hệ trẻ giai đoạn đất nước xây dựng cuộc sống mới mà tiêu biểu là anh thanh niên. Qua đó tác phẩm khẳng định vẻ đẹp của người lao động và ý nghĩa của những hi sinh, cống hiến thầm lặng.
Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 3
Lặng lẽ Sa Pa một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nguyễn Thành Long. Tác phẩm được sáng tác trong một lần tác giả đi công tác tại Lào Cai. Tác phẩm là lời ca ngợi cuộc sống và con người lao động bình dị, lặng lẽ cống hiến tuổi xuân cho đất nước. Bằng một giọng văn tình cảm, nhẹ nhàng Nguyễn Thành Long đã tạo nên một thiên truyện thấm đẫm chất trữ tình từ khung cảnh thiên nhiên đến con người.
Chất trữ tình trong tác phẩm trước hết là ở bức tranh thiên nhiên thẫm đẫm chất thơ, mơ mộng và đầy lãng mạn. Mỗi khi nhắc đến Sa Pa có lẽ người ta chỉ nghĩ đến những khung cảnh lạnh lẽo, với mưa phùn rả rích, cái lạnh thấm vào da thịt và cảnh vật. Nhưng Sa Pa dưới ngòi bút Nguyễn Thành Long lại hiện lên rất khác, rất mộng mơ, trữ tình. Đó là những rặng đào, với những chú bò cổ đeo chuông đang thủng thẳng gặm cỏ ở thung lũng hai bên đường. Và cả một thiên đường đã vẽ ra trước mặt tác giả, bằng con mắt tinh tế và vô cùng tài hoa, người nghệ sĩ già đã vẽ ra trước mắt người đọc thật tuyệt mĩ: “Nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc, dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luôn cả vào gầm xe”. Bằng điểm nhìn từ trên cao hạ thấp dần xuống dưới người họa sĩ đã nắm bắt trọn vẹn cái thần, cái hồn của cảnh vật. Bức tranh thiên thiên Sa Pa tươi sáng, rực rỡ với ánh nắng ngập đầy đã khiến cả không gian trở nên ấm áp, và dường như ánh nắng vàng óng ả kia như những chai mật ong, rót xuống triền thung lũng, cỏ cây khiến chúng ngọt ngào hơn bao giờ hết. Hòa trong khung cảnh ấy là cái bồng bềnh, lãng đãng trôi của những đám mây. Chính trong khung cảnh đó đã tạo nên cuộc gặp đầy chất trữ tình ở phía sau.
Chất trữ tình của tác phẩm không chỉ ở khung cảnh nên thơ, lãng mạn mà còn toát lên từ chính cuộc sống của người thanh niên “cô độc” trên đỉnh Yên Sơn. Anh thanh niên quê ở Lào Cai, anh hai mươi bảy tuổi – cái tuổi đầy hoài bão, mơ ước được bay nhảy, nhưng anh lại lựa chọn cho mình một cuộc sống rất khác đó là làm việc khí tượng một mình tại đỉnh Yên Sơn hoang vu. Bác lái xe vẫn gọi anh là kẻ cô độc nhất thế gian, lần anh thèm người quá phải lấy khúc gỗ chắn ngang đường, lần ấy cũng tạo nên cơ duyên để anh được gặp bác lái xe, sau là ông họa sĩ và cô kĩ sư. Anh thèm được trò chuyện, được quan tâm và yêu thương, chứ không phải sự thèm người và chốn phồn hoa đô hội đơn thuần. Anh thanh niên đã từng quan niệm, bản thân và công việc là một đôi, vậy sao có thể gọi là một mình được, khi trò chuyện cùng bác họa sĩ.
Dưới con mắt của nhà họa sĩ, đầy mộng mơ mà cũng hết sức thực tế, cuộc sống anh thanh niên hiện lên thật giản dị, mộc mạc mà cũng hết sức thơ mộng. Anh thanh niên sống trong một ngôi nhà ba gian nhỏ, bàn ghế được sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ cùng những phương tiện, công cụ làm việc của anh: biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Và nơi nhỏ góc phòng chính là chiếc giường đơn và cái giá sách. Sống một mình nhưng cuộc sống của anh hết sức gọn gàng ngăn nắp. Anh làm việc đúng giờ, dù giờ ốp có vào một giờ đêm giá rét anh vẫn dạy thực hiện nhiệm vụ của mình. Để làm cho đời sống thêm phong phú, sau những giờ làm việc mệt nhọc anh thanh niên còn nuôi gà và có một giá sách hết sức đồ sộ nhờ sự giúp đỡ của bác lái xe. Anh thanh niên biết làm cho cuộc sống của mình thêm phong phú, ý nghĩa, biết liên tục trau dồi tri thức cho bản thân.
Cuộc sống của anh đâu chỉ có ngăn nắp, gọn gàng mà ta còn thấy một nét vẽ rất khác trong cung cách sinh hoạt ấy, đó là cuộc sống đầy mộng mơ, lãng mạn với vườn hoa vô vàn màu sắc trước cửa nhà. Những bông hoa dơn, hoa thược dược rực rỡ,… không khỏi làm cho cô kĩ sư xúc động, tự nhiên nhận lấy bó hoa người con trai trao tặng cho cô. Quả là dưới con mắt của người nghệ sĩ, mọi sự vật đều trở nên nên thơ hơn, trữ tình hơn. Và chính trong khung cảnh đầy lãng mạn ấy đã bồi đắp, khiến cho cô kĩ sư vững tâm hơn với lựa chọn của mình, bỏ lại sau lưng mối tình nhạt nhẽo, đem thanh xuân của mình cống hiến cho đất nước.
Không chỉ lãng mạn, thơ mộng, chất trữ tình còn toát lên từ chính tính cách của anh thanh niên. Anh là người chu đáo, hết sức quan tâm đến mọi người, nào củ tam thất dành cho vợ bác lái xe tẩm bổ, nào là giỏ trứng cho bố con cô họa sĩ ăn dọc đường và bó hoa to anh dành tặng cho cô kĩ sư, đã đem đến cho cô biết bao niềm tin và động lực về quyết định của mình. Không chỉ vậy anh còn là người có trách nhiệm với công việc. Mưa gió, cái lạnh thấu da cũng không thể cản bước chân anh, anh vẫn hoàn thành các giờ ốp, báo đều đặn về cho “nhà” hoàn thành nhiệm vụ được giao. Niềm hạnh phúc của anh thật giản dị và chân thành, đó là khi báo được đám mây khô, giúp ta tiêu diệt lực lượng địch. Và anh còn là một con người hết sức khiêm tốn. Khi nhận thấy bác họa sĩ vẽ mình anh đã vội vàng xua tay và giới thiệu những người đáng để vẽ hơn. Những nét tính cách đẹp đẽ đó đã góp phần làm nên chất trữ tình đậm nét cho tác phẩm.
Cả tác phẩm bàng bạc chất thơ, thẫm đẫm tình người từ khung cảnh cho đến con người lao động. Bằng những cảm nhận tinh tế và hết sức tài hoa, Nguyễn Thành Long đã đem đến một cái nhìn mới về thiên nhiên Sa Pa, một cái nhìn đúng về thế hệ trẻ trong thời kì xây dựng đất nước. Anh thanh niên chính là đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam, cống hiến tuổi xuân, sức lực vì quê hương, tổ quốc.
Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 4
“Lặng lẽ Sa Pa” là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thành Long sáng tác năm 1970. Truyện ra đời trong hoàn cảnh miền Bắc đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam. Ra đời trong giai đoạn ấy, truyện mang dấu ấn của một thời điểm lịch sử mà mọi người dân đều có ý thức sống cho cái chung và dường như quên đi chính bản thân mình. Người thanh niên làm khí tượng trong truyện là một điển hình cho thế hệ thanh niên chỉ biết xả thân mình cho đất nước. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa”, chúng ta chợt thấy mình như lắng lại trong chiều sâu xúc cảm.
Truyện bắt đầu thật tự nhiên theo vòng quay của bánh chiếc xe chở khách lên Tây Bắc và lời kể của người lái xe. Hình ảnh người thanh niên chạy xuống đón xe khi xe ngừng đã ngay lập tức làm người đọc phải chú ý: “người con trai tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ”. Phải, chính người con trai ấy là nhân vật chính trong truyện, là người làm nên những điều bất ngờ không những chỉ cho người hoạ sĩ già và cô kĩ sư trẻ mà còn cho cả người đọc.
Giá trị của “Lặng lẽ Sa Pa” là ở chỗ tác phẩm đã khắc hoạ được chân dung của những con người trẻ tuổi dám nghĩ, dám làm, dám sống đầy bản lĩnh và nghị lực, sống tốt cho mình và cho mọi người.
Nhân vật đầu tiên phải nhắc đến là anh thanh niên hai mươi bảy tuổi đời, sống và làm việc một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai ngàn sáu trăm mét. Anh đã sống thật đặc biệt và nghĩ suy thật đặc biệt ở cái độ tuổi tưởng chừng chưa “chín” ấy. Sống một mình trên đỉnh núi mây mờ quanh năm bao phủ, mọi người phong cho anh biệt hiệu “người cô độc nhất thế gian”, nhưng anh vẫn vui vẻ và yêu đời, sống tốt. Nhìn vườn hoa quanh nhà anh với đủ các loại hoa rực rỡ, nhìn căn phòng ngăn nắp, sạch sẽ của anh, người ta buộc phải hiểu đây là một con người nghiêm túc, có chiều sâu. Càng phải hiểu điều đó hơn nữa khi nghe những lời anh tâm sự. Anh cũng là người, cũng biết buồn, biết sợ. Lúc mới lên làm việc, anh buồn đến nỗi khiêng cây chắn ngang đường để chặn xe lại, để gặp mọi người, vì anh “thèm người lắm”. Ôi, cái cảm giác “thèm người” ấy mới chân thật làm sao! Quả thực làm sao mà sống nổi khi quanh ta không có ai.
Còn nữa, anh quan niệm cũng thật thú vị: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi”, và sách nữa, sách cũng là bạn, là người để anh tâm sự, trò chuyện. Suy nghĩ như vậy, anh cảm thấy bớt cô đơn. Rõ ràng, con người ấy sống bằng ý chí, bằng một tình yêu thật lớn với cuộc đời.
Chính cách sống và nghĩ suy của anh đã làm cho người hoạ sĩ già và cô gái trẻ phải suy ngẫm. Người hoạ sĩ già đang cảm thấy mình như trẻ lại với ước ao làm được thật nhiều việc có ý nghĩa. Còn cô gái, “trong cô dâng lên cảm giác hàm ơn”, có lẽ, chính anh đã thắp sáng lên trong cô bao hoài bão, bao ước nguyện thánh thiện được dâng hiến sức lực của mình cho cuộc đời.
Nhân vật thứ hai trong truyện có lẽ nên nói về cô gái này. Cô vừa ra trường, nhận công tác tại công ty Nông nghiệp Lai Châu. Chính tác giả đã khẳng định về cô: “Cô là thanh niên thì ra trường có thể đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì, nhận bất kì lương hưởng, tiếp đón thế nào, cô thấy lòng cô cũng nhẹ nhàng”. Như vậy, chính cô gái cũng là một mẫu người dám xông pha, dám sống cao hơn cuộc sống chật hẹp của đời thường. Lần đầu xa Hà Nội, cô thấy mình háo hức, đầy những xúc cảm kì lạ. Cô bấy giờ chính là anh của những năm tháng trước, ở cô, người đọc có quyền tin tưởng rồi đây, tại một nơi nào đấy, cô cũng sẽ vui vẻ hoàn thành mọi công việc được giao, ở buổi ban đầu bước vào đời, cô gặp anh để một lần nữa thấy được hướng đi đúng cho mình và bước đi mạnh mẽ, can đảm hơn.
Như vậy, hai người trẻ tuổi ấy đã gặp nhau trong niềm say mê chung đối với công việc, trong ý thức chung về sự cống hiến cho đất nước. Niềm mê say tràn đầy nhựa sống ấy của họ làm bừng lên sức trẻ cho tác phẩm. Và chính người họa sĩ ở vào tuổi đã chuẩn bị về hưu lại muốn mình được tiếp tục sống và làm việc cho đời. Ông dự định đi “thực tế” chuyến cuối cùng rồi về cùng anh em liên hoan tiễn biệt. Nhưng đến đây, ông bỗng cảm nhận mình còn phải sống và hiến dâng. Ông quyết sẽ trở lại, để “biết cái yên lặng lúc một giờ sáng chon von trên cao nó thế nào”.
Ra đời năm 1970, trong không khí hai miền đang hăng say xây dựng và chiến đấu, “Lặng lẽ Sa Pa” đã từ trong lặng lẽ mà tạo nên những âm vang rất riêng, góp phần giúp cho mọi người nhìn nhận người mà sống tốt hơn, dâng hiến nhiều hơn. Hình ảnh chàng trai và cô gái với những suy nghĩ và việc làm của họ nghe cứ như một huyền thoại khiến cho lớp trẻ ngày nay chợt giật mình để nghĩ suy về mình nhiều hơn. Liệu chúng ta có dám tự nguyện sống và hành động, suy nghĩ như họ không? Đó là câu hỏi mà chúng ta, những học sinh cần phải biết trả lời cho một ngày không xa của tương lai mình.
Bằng giọng kể chân thật, hồn hậu mà cũng thật giản dị, bằng cách xây dựng truyện theo một trình tự tự nhiên trước – sau, bằng cách kết hợp miêu tả cảnh với tình, tác giả Nguyễn Thành Long đã khéo léo đưa người đọc đến với đỉnh cao Yên Sơn ngập tràn mây và gió, để tiếp xúc và hiểu được những con người thật sự lí tưởng, để yêu thêm cuộc sống, yêu thêm công việc.
“Lặng lẽ” mà lại không lặng lẽ, tác phẩm của Nguyễn Thành Long đã để lại tiếng vang cho hôm nay. Hy vọng, đó sẽ là những vang vọng trong tâm hồn của nhiều thế hệ thanh niên mai sau.
Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 5
Trong văn học Việt Nam, hiện đại có những cây bút văn xuôi chỉ chuyên về truyện ngắn và kí. Nguyễn Thành Long (1925- 1991) là một trong số đó. Bắt đầu viết văn trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở liên khu V, Nguyễn Thành Long được khẳng định như một cây bút truyện ngắn và kí đáng chú ý trong những năm 60-70 với cả gần chục tập sách đã in. Ông là một cây bút cần mẫn và nghiêm túc trong lao động nghệ thuật, lại rất chú trọng thâm nhập thực tế đời sống. Nhiều sáng tác của Nguyễn Thành Long là kết quả trực tiếp của những chuyến “thâm nhập thực tế” như thế, nhưng truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa lại là một trường hợp đặc biệt.
Mùa hè năm 1970 theo lời kể tác giả, ông cùng một người bạn văn quyết định đi nghỉ ở Sa Pa. Vì thế mà nhà văn không vào các cơ quan, đơn vị của địa phương để tìm hiểu thực tế hay tìm gặp những “điển hình tiên tiến” như những lần đi thực tế của các văn nghệ sĩ. Nhưng điều may mắn lại chính là do chỗ không lăm le tìm hiểu thực tế theo lối khá công thức lúc bấy giờ của giới văn nghệ sĩ mà Nguyễn Thành Long đã bắt gặp câu chuyện về người thanh niên công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn một mình giữa lặng lẽ của Sa Pa. Bằng sự nhạy cảm nghề nghiệp, nhà văn đã nắm lấy chất liệu thực tế ấy, bồi đắp thêm bằng sức tưởng tượng sáng tạo và truyền vào đấy những suy ngẫm, quan niệm về đời sống, về nghệ thuật của một cây bút từng trải làm nên một truyện ngắn hay.
Thành công của Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn này, có lẽ trước hết là đã tạo dựng một chất thơ trong sáng, làm nên không khí và sắc điệu riêng của tá phẩm được toát lên từ sự hài hòa giữa phong cảnh thiên nhiên đẹp lộng lẫy và mơ màng của Sa Pa với vẻ đẹp trong những suy nghĩ, cảm xúc và công việc của các nhân vật cùng mối quan hệ của họ. Lặng lẽ Sa Pa có một cốt truyện đơn giản, xoay quanh tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư vừa mới ra trường với anh thanh niên một mình sống và làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Cuộc gặp gỡ chỉ trong chốc lát nhưng đã đủ để nhân vật chính xuất hiện gây được ấn tượng và gợi ra những suy nghĩ, cảm xúc với nhiều âm vang ở những nhân vật khác trong truyện. Sáng tạo được tình huống ấy và lựa chọn được nhiều điểm nhìn trần thuật từ cái nhìn và tâm trạng người họa sĩ già – Một nghệ sĩ nhiều từng trải và chiêm nghiệm về cuộc đời và nghệ thuật, thì có thể nói tác giả đã nắm chắc được sự thành công của đứa con tinh thần của mình.
Truyện có 4 nhân vật: Bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư và anh thanh niên. Họ thuộc hai thế hệ già và trẻ, nghề nghiệp khác nhau nhưng ở họ có rất nhiều điểm rất gần gũi mà trước hết là những nét đẹp trong suy nghĩ, trong thái độ đối với cuộc sống với công việc và với những người khác. Những nhân vật ấy (và ả những nhân vật chỉ được nói đến trong lời kể của người thanh niên) đều không được tác giả đặt tên. Điều này hẳn không phải là không có dụng ý của tác giả: Nhà văn muốn thể hiện họ là những con người bình thường, bình dị trong cuộc gặp gỡ bất ngờ trên hành trình của một chuyến xe khách, như là chúng ta có thể gặp những con người như thế ở nhiều nơi trên đất nước. Những nhân vật trong truyện ít nhiều đều có màu sắc lý tưởng, nhưng họ cũng những hình ảnh những con người mang vẻ đẹp của một thời kì lịch sử.
Nhân vật chính của truyện – anh thanh niên chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng vẫn là điểm sáng chói nổi bật nhất của bức tranh mà tác giả tập trung thể hiện. Để chuẩn bị cho sự xuất hiện của anh, tác giả đã qua lời bác lái xe để giới thiệu về anh: Hai mươi bảy tuổi, người cô độc nhất thế gian, một mình trên trạm khí tượng ở đỉnh cao hai ngàn sáu trăm mét, rất “thèm người”. Cách giới thiệu ấy đã gây hứng thú và chuẩn bị tâm thế cho nhân vật ông họa sĩ trước cuộc gặp gỡ. Khi xe dừng, người thanh niên xuất hiện với dáng vẻ nhanh nhẹn tự nhiên và vóc dáng hơi nhỏ bé dường như không ó gì đặc biệt. Sức thu hút của anh chính là ở thái độ và những suy nghĩ về cuộc sống và công việc của một người một mình lặng lẽ của thiên nhiên. Cái mà tác giả muốn làm nổi bật ở những nhân vật này không phải là những công việc khó khăn đòi hỏi phải có tinh thần trách nhiệm cao, mà là một hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt: một mình trên đỉnh núi cao Yên Sơn quanh năm suốt tháng giữa cái lặng lẽ mênh mông của cỏ cây mây núi. Cái khó khăn, thách thức lớn nhất với anh chính là sự cô độc. Cái gì giúp anh vượt qua được hoàn cảnh ấy?
Trước hết đó là ý thức trách nhiệm và tình yêu với công việc. Công việc hằng ngày của anh “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Anh hiểu rõ công việc thầm lặng của mình là cần thiết và có ích cho mọi người, nó gắn liền anh với mọi người và cuộc sống chung của đất nước. Anh yêu công việc của mình: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ nếu cháu cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.
Nét đẹp ở nhân vật này không chỉ là ở cách sống có lí tưởng mà còn ở những suy nghĩ sâu sắc về công việc và cuộc sống. Chẳng hạn, về sự cô độc, anh đã nghĩ thế nào?
“Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kỹ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Vả khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi, việc của cháu gắn liền với việc của bao an hem, đồng chí dưới kia”. Còn đây là về nỗi “thèm người” – như cách nói của bác lái xe, anh nghĩ “Con người thì a mà chả “thèm” hả bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?” Những nỗi “nhớ người” với anh, quyết không thể là nỗi nhớ “phồn hoa đô thị”.
Trong cuộc sống lẻ loi của mình, anh còn tìm thấy một nguồn vui, đó là sách, mà anh thấy lúc nào đọc cũng như có người bạn để trò chuyện.
Chính vì tất cả những điều trên mà cuộc sống của người thanh niên ấy giữa núi cao mây mù không buồn tẻ. Anh tổ chức cuộc sống một mình ở trạm khí tượng thật ngăn nắp và chủ động: trồng hoa, trồng rau, nuôi gà, đọc sách ngoài những giờ làm việc có mối giao lưu thân thiết với bác lái xe, những cuộc gặp gỡ với mọi người. Ở người thanh niên ấy còn có một nét rất đáng mến nữa là sự cởi mở, chân thành với mọi người, khao khát được gặp gỡ, trò chuyện với người khác. Tình thân của anh với bác lái xe, thái độ ân cần, nhiệt thành, sự săn sóc chu đáo của anh với ông họa sĩ và cô gái mới lần đầu gặp gỡ đã nói lên nét đáng mến ấy ở anh.
Trong truyện, ngoài nhân vật người thanh niên, các nhân vật phụ (bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư mới ra trường …) không chỉ tham gia vào câu chuyện, làm rõ nét hơn cho nhân vật chính, mà còn làm phong phú và sâu hơn cho chủ đề truyện. Trong số đó, đáng chú ý nhất là nhân vật ông họa sĩ già. Tác giả đã hầu như “nhập” vào cái nhìn và tâm trạng của nhân vật này để trần thuật, bao gồm cả quan sat, miêu tả và suy ngẫm, bình luận. Qua cái nhìn của ông họa sĩ, chân dung nhân vật chính được hiện ra rõ nét hơn, đẹp hơn và khơi gợi những suy ngẫm về cuộc đời con người và nghệ thuật.
Ngay những phút đầu gặp gỡ với người thanh niên, bằng sự từng trải của một người nghệ sĩ, ông xúc động đến bối rối vì đã “bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác”. Và với ông “người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá: với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh và những điều anh suy nghĩ. Và đúng như người họa sĩ đã nghĩ: “Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác”. Ví như, từ câu chuyện với người thanh niên, ông họa sĩ đã suy nghĩ về nghệ thuật với cả sức mạnh và sự bất lực của nó so với cuộc đời, về con người và mảnh đất Sa Pa.
Còn với cô kĩ sư trẻ mới ra trường thì cuộc gặp gỡ với anh thanh niên cùng với những điều anh kể đã khiến cô bàng hoàng, “cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới của những con người như anh”. Quan trọng hơn nữa, cô hiểu và tin hơn vào con đường mà cô đã lựa chọn.
Như vậy qua cảm xúc và suy nghĩ của các nhân vật khác, hình ảnh người thanh niên như được soi rọi dưới một ánh sáng trong trẻo và rực rỡ khiến nó đẹp hơn, ánh lên nhiều màu sắc hơn. Đó là cái thủ pháp mà người xưa gọi là “vẽ mây để nảy trăng”.
Lặng lẽ Sa Pa chưa phải là một truyện ngắn xuất sắc. Có thể ra những chi tiết chưa thật đắt, những chỗ tác giả đã nói thay nhân vật, phát biểu quá lộ liễu về chủ đề của tác phẩm. Nhưng dù sao truyện ngắn này cũng là một thành công đáng ghi nhận của cây bút truyện ngắn Nguyễn Thành Long. Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy cũng gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật.
….
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long (Sơ đồ tư duy) 3 Dàn ý & 16 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.