Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình ảnh những người lính trường Sơn, với tư thế hiên ngang, bất chấp hiểm nguy. Với 24 bài Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn.
Cho dù mưa bom, bão đạn, cho dù cuộc sống chiến đấu có khó khăn và hiểm nguy tới đâu thì những người lính vẫn mang trong mình tinh thần hiên ngang, bất khuất, chiến đấu vì miền Nam thân yêu. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Dàn ý phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính
a) Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả Phạm Tiến Duật: Phạm Tiến Duật (1941 – 2007) là nhà thơ lớn, có nhiều sáng tác, trưởng thành trong đội ngũ các nhà thơ thời kháng chiến chống Mĩ.
– Giới thiệu khái quát Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mĩ, ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
b) Thân bài
* Khái quát hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
- Bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc.
- Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn trong đó có những đoàn xe vận tải vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù để ra trận.
- Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc hoạ thành công chân dung người chiến sĩ lái xe.
* Hình ảnh những chiếc xe không kính
– Hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả miêu tả trần trụi, chân thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính,
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
- Đó là những chiếc xe vận tải chở hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, bị máy bay Mĩ bắn phá, kính xe vỡ hết.
- Động từ “giật”, “rung” cùng với từ “bom” được nhấn mạnh hai lần càng làm tăng sự khốc liệt của chiến tranh
=> Hai câu thơ đã giải thích nguyên nhân những chiếc xe lại không có kính, qua đó phản ánh mức độ khốc liệt của chiến tranh.
* Hình ảnh người lính lái xe
– Tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
- Tính từ ung dung nhấn mạnh tư thế chủ động, coi thường mọi khó khăn, nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe.
- Điệp từ “nhìn”: khí phách kiên cường, như thách đố với khó khăn.
– Thái độ, tinh thần lạc quan, bông đùa với những khó khăn:
+ Bụi phun vào tóc, vào mặt là một trò gây cười, mưa ướt áo cứ đi tiếp vì gió lùa áo khô nhanh thôi, xe không kính cũng có cái hay đó là tầm nhìn rộng hơn, thấy được con đường “chạy thẳng vào tim”, thấy sao trời gần hơn “ùa vào buồng lái”.
-> Những khó khăn gian khổ như tăng lên gấp bội vì xe không có kính nhưng không làm giảm ý chí và quyết tâm của các chiến sĩ lái xe.
+ Điệp từ “ừ thì”: như một cái tặc lưỡi, chép miệng đồng thuận, coi mọi khó khăn là chuyện nhỏ.
=> Thái độ lạc quan, yêu đời, tự tin có chút bướng bỉnh, ngang ngạnh; hình ảnh người lính lái xe hiện lên vừa đáng yêu vừa đáng nể.
– Tình đồng đội thắm thiết, thiêng liêng là sợi dây vô hình nối kết mọi người trong hoàn cảnh hiểm nguy, kề cận cái chết:
- Tiểu đội xe là “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gặp nhau.
- Tình đồng đội: những cái bắt tay qua “cửa kính vỡ rồi”, là dựng bếp lửa giữa trời, cùng ăn cùng ca hát, cùng mắc võng ngủ trong rừng.
=> Từ trong khó khăn, người lính từ mọi miền xa lạ trở thành “gia đình” của nhau.
– Niềm tin vào chiến thắng:
- Điệp từ “lại đi”, lí do “vì miền Nam phía trước” : Không gì ngăn cản được các anh đến chi viện cho chiến trường miền Nam.
- Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” và hoán dụ “trong xe có một trái tim”: tình yêu thương dành cho miền Nam, cho Tổ quốc, là niềm tin và chiến thắng, vào tự do.
-> Hình ảnh “trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật đẹp đẽ và đầy sáng tạo, khẳng định phẩm chất cao quý của các chiến sĩ lái xe trên đường ra tiền tuyến lớn.
=> Tất cả cùng chung lí tưởng chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và tin tưởng vào tương lai tươi sáng đang tới rất gần.
* Đánh giá đặc sắc nghệ thuật:
- Kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ
- Sử dụng các biện pháp tu từ như điệp ngữ, hoán dụ…
- Sáng tạo được những hình ảnh độc đáo có chất liệu hiện thực sinh động
- Ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.
c) Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
- Liên hệ việc giáo dục phát huy tinh thần chiến đấu cho thế hệ trẻ hiện nay.
Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính ngắn gọn
Không sinh ra trong chiến tranh nhưng thế hệ trẻ chúng ta sau này thật may mắn khi được tiếp cận với những bài thơ hay nói về chiến tranh. Nhờ đó mà chúng ta thêm hiểu, thêm yêu về những người lính, về những năm tháng gian khổ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính cũng là một trong những sáng tác hay viết về người lính nhưng ở một khía cạnh khá mới mẻ. Bài thơ được nhà thơ Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969, khi ấy, cuộc kháng chiến chống Mĩ của cả nước đang bước vào giai đoạn vô cùng ác liệt.
Những năm tháng chiến đấu, con đường Trường Sơn đã trở nên quen thuộc với nhiều người. Hình ảnh về con đường Trường Sơn cũng được lấy làm nhiều đề tài cho các bài thơ, bản nhạc. Chẳng hạn như bài hát Trường Sơn đông, Trường Sơn tây, sợi nhớ sợi thương. Phạm Tiến Duật cũng viết về cung đường Trường Sơn qua lăng kính của một người lính lái xe. Hàng ngày dọc đường Trường Sơn có biết bao nhiêu chuyến xe đi qua, không phải chiếc xe nào cũng lành lặn mà có những chiếc xe đã bị mất tấm kính chắn phía trước khiến chúng trở nên thật đặc biệt:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ mất rồi
Hai câu thơ mở đầu giải thích lý do vì sao mà xe không có kính, lời giải thích thật rõ ràng. Câu thơ cũng khái quát được hình ảnh bom đạn ác liệt của chiến trường. Nhưng giữa cảnh bom đạn ác liệt như vậy, người đọc không hề cái sự run sợ của lính mà chỉ thấy chất thơ ung dung, tự tại:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Hai từ ung dung cho ta thấy được tâm thế tự do, tự tại của người lính. Bom đánh vỡ kính là chuyện nhỏ, bom còn có thể khiến người ta lìa xa cõi đời. Vậy mà người lái xe vẫn “ung dung” “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ tiếp theo lại giống như một thước phim ghi lại những gì mà người chiến sĩ đã nhìn thấy trên con đường mà xe đã đi qua. Giọng điệu thơ đầy đĩnh đạc và mạnh mẽ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Ở đây, gió đã được nhân hóa để thực hiện hành động “xoa”. Câu thơ đọc lên mang lại sự ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Người lính lái xe nhìn thấy gió, nhìn thấy con đường, nhìn thấy sao trời rồi lại nhìn thấy cánh chim. Nhìn thấy gió là bởi xe không có kính, mỗi một vòng bánh xe lăn, đôi mắt lại chạm vào gió khiến tác giả cảm thấy như mình nhìn được thấy gió. Rồi giữa bầu trời đêm, người lái xe cũng nhìn thấy rõ sao trời. Những từ “nhìn thấy”, “sa”, “ùa” khiến ta thấy nhịp thơ trở nên gấp gáp giống như chiếc xe đang lăn bánh một cách vội vàng trên con đường. Xe đi nhanh là để tránh được bom đạn của kẻ thù.
Những câu thơ tiếp theo, tác giả nhắc đến một cản trở nữa mà người lính lái xe gặp phải trên đường làm nhiệm vụ với chiếc xe không kính đó là bụi:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Những câu thơ giàu hình ảnh khiến người đọc như chứng kiến tận mắt một người lính lái xe đầy bụi bặm, phong trần. Những người lính tóc xanh nhưng vì bụi phủ đã khiến mái tóc trở nên bạc trắng như mái tóc người già. Thế nhưng, họ chẳng cần quan tâm. Những nụ cười hồn nhiên và sảng khoái khi nhìn nhau mặt lấm vẫn xuất hiện.
Gió bụi qua đi thì lại đến mưa rừng. Không có kính, quả khiến người lính nếm trải đủ dư vị của thiên nhiên:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi
Không có kính chắn, lái xe mà gặp mưa thì chỉ có ướt áo. Nhưng với tinh thần cách mạng của mình, chuyện ướt áo chỉ là chuyện nhỏ, dừng xe lại mới là chuyện lớn. Vậy nên người lái xe vẫn tiếp tục di chuyển “lái trăm cây số nữa”. Nỗi gian nan của người lính không đong đếm bằng gió, bụi, mưa mà mong đếm bằng quãng đường họ đã chạy. Câu thơ diễn tả nghị lực phi thường của người lính, họ bất chấp gian khổ, bất chấp hiểm nguy để làm nhiệm vụ.
Niềm vui của những người lính là khi được gặp đồng đội của mình ở giữa rừng:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Câu thơ có sự ví von thật ấn tượng khi những chiếc xe cũng có cảm xúc. Chúng gặp nhau và họp thành tiểu đội. Cũng giống như những người lính, mỗi khi lái xe gặp một chiếc xe khác, họ lại đưa tay ra nắm lấy tay nhau qua ô kính vỡ như truyền thêm cho nhau sức mạnh để tiếp tục hành quân. Cuộc gặp gỡ vội vàng mà đầy cảm xúc.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm
Tác giả Phạm Tiến Duật đã nhắc đến bếp Hoàng Cầm, một loại bếp không khói rất được ưa chuộng trong thời chiến. Những câu thơ cho người đọc cảm giác gần gũi. Những người lính vốn là những người xa lạ nhưng gặp nhau giữa rừng, “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Trên dọc đường đi, người lái xe cũng gặp cảnh võng mắc chông chênh. Đường hành quân dẫu có gian nan thì xe vẫn cứ đi.
Xe không kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Những câu thơ cuối cùng diễn tả sự thiếu thốn của người lính lái xe. Xe không có kính, xe không có đèn, xe không có mui. Thế nhưng sự thiếu thốn ấy có là gì. Miền Nam thân yêu đang vẫy gọi, “chỉ cần trong xe có một trái tim” thì xe vẫn cứ chạy. Hình ảnh thơ thật đẹp, nó chứa đựng lý tưởng sống của người chiến sĩ cách mạng lúc nào cũng nghĩ cho người khác.
Con đường Trường Sơn, một con đường huyền thoại. Cảm ơn nhà thơ Phạm Tiến Duật đã cho chúng ta một cái nhìn đấy mới mẻ, đầy lạc quan và yêu đời. Qua bài thơ về tiểu đội xe không kính, chúng ta thấy thêm tự hào về những người lính năm nào.
Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta không chỉ là một bản anh hùng ca bất diệt mà nó còn phả vào trong văn chương một luồng không khí mới, góp phần làm phong phú thêm thế giới văn chương cách mạng. Trong khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” ấy, nhân dân miền Bắc đã không ngừng chi viện cho miền Nam ruột thịt về cả vật chất lẫn tinh thần. Những chàng trai, cô gái tuổi đôi mươi trùng trùng điệp điệp nối nhau ra tiền tuyến ngày đêm và Phạm Tiến Duật cũng có mặt trong hàng ngũ ấy. Hiện thực cuộc chiến đã tôi luyện cho ông một tinh thần lạc quan, yêu đời. Và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất tinh thần ấy của ông.
Phạm Tiến Duật được mệnh danh là nhà thơ của Trường Sơn, là thi sĩ huyền thoại của đường mòn Hồ Chí Minh trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước. Quãng đời gắn bó với Trường Sơn huyền thoại là quãng đời đẹp nhất trong thơ Phạm Tiến Duật. Ông từng bộc bạch rằng đó là cuộc phiêu bạt lớn của số phận. Khói lửa Trường Sơn đã thấm đượm trong thơ ông qua hình ảnh những chiến sĩ mở đường, những người lái xe. Thơ Phạm Tiến Duật không đi vào lòng bạn đọc bằng những hình ảnh lãng mạn, du dương hay bằng ngôn ngữ trau chuốt, cầu kỳ âm điệu du dương, nhẹ nhàng và êm ái. Thơ Phạm Tiến Duật say mê lòng người bởi sự sống động, tự nhiên, gân guốc, táo bạo và độc đáo. “Thơ ông mang hơi thở của cả một thời đại nhưng bằng một khí phách ngang tàng, chất bụi bặm và kiêu bạc của người lính thời chống Mỹ” ( Nguyễn Văn Thọ). Và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, thể hiện một khí phách ngang tàn, hồn nhiên của người sĩ lái xe, in trong tập “Vầng trăng quầng lửa” (1970).
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật sáng tác vào năm 1969 – khi cuộc chống Mỹ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Máy bay giặc Mỹ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống con đường chiến lược mang tên con đường Hồ Chí Minh. Trên con đường rừng Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện cho miền Nam ruột thịt. Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe trở thành quen thuộc, đáng yêu và trở thành nguồn cảm hứng để Phạm Tiến Duật chắp bút, viết nên những vần thơ về hình ảnh vô giá này.
Khơi nguồn cảm hứng bằng hình ảnh những chiếc xe “không kính” độc đáo và bằng tài năng của mình, Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình ảnh độc đáo ấy. Bên trong vỏ ngoài tưởng chừng như đổ nát, thiếu thốn về vật chất ấy là một khí phách ngang tàn, một trái tim nhiệt huyết, lạc quan của những người lính trẻ.Mở đầu bài thơ, tác giả đã đưa ra lý do về những chiếc xe không kính bằng những ngôn ngữ tự nhiên, giản dị nhưng lại pha một chút ngang tàn:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”
Câu thơ nghe qua như một lời kể, lời tâm sự. Cấu trúc điệp từ “không” vừa nhấn mạnh tính phủ định, vừa thể hiện sự hóm hỉnh, hồn nhiên của những người lính lái xe Trường Sơn. Và vô hình trung, những chiếc xe không kính ấy trở thành biểu tượng của mảnh đất Trường Sơn. Lời giải thích cho những chiếc xe không kính độc đáo ấy cũng chân thực như lột tả hình ảnh bằng ngôn từ:
“Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Điệp từ “bom” kết hợp với các động từ mạnh như “giật”, ”rung”đã tái hiện lại không khí, tính chất khốc liệt, gay go của cuộc chiến, lộ rõ bản chất hung bạo, ngông cuồng của đế quốc, bất chấp theo đuổi mục đích phi nghĩa bằng mọi giá. Bao nhiêu tấn bom đạn dội xuống mảnh đất Trường Sơn để tàn phá con người và thiên nhiên, làm lung lay ý chí quật cường, tinh thần quyết chiến của những chàng trai trẻ. Bom giật, bom rung làm những chiếc kính vỡ tan tành. Những lời thơ như toát ra một sự bình thản của người cầm lái:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Từ “ung dung” đặt trong phép đảo ngữ như đang diễn tả thái độ tự tin, bình tĩnh, không một chút nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Hai chữ “ta ngồi” với điệp từ nhìn lặp lại ba lần thể hiện một phong thái đĩnh đạc, mạnh mẽ. Không màng đến những thiếu thốn về vật chất, sự hiểm nguy nơi chiến trường khốc liệt, những chàng trai mặc áo lính vẫn lên đường để hoàn thành nhiệm vụ. Trạng thái đối lập giữa hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh và tâm thế của những con người cầm lái càng làm rõ hơn phẩm chất của anh bộ đội cụ Hồ: gan dạ, đầy khí chất.
Câu thơ toát lên sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang bon bon trên tuyến đường Trường Sơn và thái độ ngoan cường của những người lính trẻ. Nó đã khắc sâu vào trong tâm khảm về một hình tượng người lính “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” – một vẻ đẹp sáng ngời tỏa ra từ tâm hồn. Cách nhìn chăm chú đó biểu lộ niềm yêu thương của anh với thiên nhiên và cuộc sống, sự quyết tâm vững vàng trong nhiệm vụ. Bởi thế, mặc cho sự thét gào của bom đạn, các anh vẫn cứ tiến lên, tiến về phía trước, phía ánh sáng của độc lập, tự do.
Trong mỗi chiếc xe, kính là bộ phận bảo vệ để ngăn bên trong buồng lái với thế giới bên ngoài. Nhưng giờ đây, các anh như được hòa mình vào với thiên nhiên, với không khí của cuộc chiến bên ngoài:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Cảm giác của người chiến sĩ về cơn gió là cảm giác trực diện. Anh không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy cả những cơn gió vô hình. Để làm giảm bớt vị đắng, sự khó chịu nơi con mắt bởi những ngày đêm thức trắng để lái xe không nghỉ, anh đã cho chị gió xoa mắt đắng, xoa nó đi để rồi ngày mai anh đi tiếp, đi tiếp về tương lai. Sự liên tưởng ấy thật đẹp và thật độc đáo khi chiếc xe lao tới, con đường lúc ấy như chạy ngược về phía trước. Sự tin tưởng phù hợp với tấm lòng của người lái, đó là tấm lòng nhiệt tình, hăng say trong nhiệm vụ. Trái tim người chiến sĩ luôn luôn dạt dào tình yêu Tổ quốc, quê hương mà đặc biệt là con đường thân thuộc, gần gũi, con đường hứng chịu bao bom đạn máu lửa. Chiếc xe vẫn cứ lao nhanh, lao xa đi mãi, tiến lên phía trước vì miền Nam ruột thịt.
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Dù sống chung với cuộc kháng chiến đầy mưa bom, bão đạn nhưng không vì thế mà những người lính trẻ sống trong lo âu, sợ hãi mà tâm hồn họ vẫn tràn đầy sự lãng mạn, bay bỗng khi anh mở rộng tầm mắt, quan sát từ bên trong qua những ô cửa kính vỡ để thấy sao trời, thấy cánh chim. Có lẽ tâm hồn các anh phải hân hoan, phơi phới yêu đời lắm nên mới có được cảm nhận được những cánh chim như sa, như ùa vào khoang buồng lái để trò chuyện tâm tình với họ. Nếu từ “nhìn thấy” diễn tả tâm thế chủ động của người chiến sĩ đối với cảnh vật thiên nhiên bên ngoài thì điệp từ “thấy” lại nhấn mạnh đến sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ, “đột ngột” của cánh chim đêm. Một ngôi sao trên bầu trời, một cánh chim lạc đàn cũng làm anh chú ý và xao xuyến. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ. Đối với người chiến sĩ lái xe, chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác khi lao đi. Nhưng đó cũng là nguyên nhân gây ra hậu quả:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mất đi bộ phận chắn che, người lái và chiếc xe như hòa mình vào để cảm nhận rõ không khí của cuộc chiến. Nhà thơ dùng động từ mạnh “phun” kết hợp với điệp từ “bụi” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của chiến trường. Tất cả đều mờ nhòa trong khói bụi, bụi làm cản trở tầm mắt, trùm lấy cả đất trời trong mỗi lần xe chạy suốt dọc tuyến đường Trường Sơn. Đối diện với sự thiếu thốn về vật chất ấy, những người lính không kêu ca, than vãn mà chỉ “Ừ thì”. Phạm Tiến Duật đã thể hiện tài năng dùng ngôn từ khi chỉ với hai từ đã thể hiện được khí phách ngang tàn, thái độ bất chấp, coi thường mọi khó khăn, hiểm nguy của cuộc chiến để bước tiếp về phía tương lai. Cái khó khăn, gian khổ đối với những chàng trai trẻ sao lại nhẹ nhàng đến thế. Trong hoàn cảnh ấy, họ chấp nhận một cách tự nguyện và động viên nhau bằng những nụ cười “ha ha” rất sảng khoái, làm phong phú thêm tâm hồn của người bộ đội cụ Hồ. Gian khổ, bom đạn không thể quật ngã được họ mà chỉ tôi luyện thêm ý chí kiên cường và làm ấm nóng thêm tình yêu quê hương đất nước.
Phải di chuyển trong một chiếc xe không có kính, nếu những ngày nắng thì bụi Trường Sơn “phun tóc trắng như người già” còn những ngày mưa gió, những hạt mưa rừng tạt vào mặt người lính, che khuất tầm nhìn của họ, khó khăn giờ đây lại chồng chất những khó khăn. Người lính nếm trải đủ mùi gian khổ dù mưa hay nắng nhưng các anh không bỏ cuộc, không nản lòng nhụt chí mà thái độ thì vẫn phơi phới, lạc quan:
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi
Điệp ngữ “mưa” kết hợp với những từ gợi tả thật đẹp “tuôn, xối” gợi lên những cơn mưa thật dữ dội, khiến người lính lái xe bị “ướt áo”. Thái độ của người lính của người lính được thể hiện dứt khoát “chưa cần thay”. Họ mặc kệ cái ướt át, lạnh giá để tiếp tục nhiệm vụ “lái trăm cây số nữa”. Lời nói thật giản dị, đơn sơ nhưng thể hiện quyết tâm lớn của người chiến sĩ: xe phải đến tới đích của sự giải phóng, sự tự do, ý thức trách nhiệm, đóng góp cho cuộc chiến. Họ lái xe cho đến khi “mưa ngừng” và trong suy nghĩ của họ cũng thật, bình dị:
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi
Sau bao ngày gió bụi vượt nắng, vượt mưa qua hàng trăm cây số sau những tháng ngày gian khổ, những người lính trẻ đã có cuộc gặp mặt giữa rừng Trường Sơn đầy khốc liệt. Những cuộc gặp gỡ, những cái bắt tay đầy độc đáo:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội.
Giờ đây, nguy hiểm của cuộc chiến đã lùi xa trong kí ức, nhường chỗ cho những cuộc hội ngộ, toàn tụ của những chiếc xe không kính cùng những con người hóm hỉnh, trẻ trung nhưng đầy ngang tàn khí phách. Họ thương nhau còn hơn ruột thịt, sống chết có nhau, san sẻ những khốn khó của cuộc chiến và hưởng chung niềm vui từ những tin chiến thắng của cuộc chiến. Có lẽ rằng, những khoảnh khắc ấy là vô giá. Và lạ lùng thay, bất giác trong cuộc hội ngộ, tác giả đã nhận ra điều thú vị rằng những chiếc xe không kính từ bất tiện giờ đây đã trở thành tiện lợi cho những cái bắt tay thoáng qua xuyên suốt dọc tuyến đường Trường Sơn.
Câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí địan kết, gắn bó, chia sẻ ngọt bùi sau những trận chiến ác liệt, căng thẳng:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Chiếc xe không kính kia phải có lúc ngừng chạy. Đó là khi chúng hoàn thành xong nhiệm vụ. Ta bắt gặp được một nét đẹp khác nơi họ. Đó chính là tình đồng đội, đồng chí của những anh lính lái xe. Khác hẳn so với hình ảnh của những anh vệ quốc quân với một nụ cười “buốt giá”, không biết bao giờ mình mới trở lại được quê hương. Còn anh giải phóng quân giữa chiến trường ác liệt, họ cũng không cảm thấy buồn chán, vì quanh họ có biết đồng đội gần gũi, yêu thương. Trong cuộc hành trình vất vả đó, họ đã “gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”, đem đến cho họ sự vui tươi, thân ái. Từ “họp, gặp” diễn tả những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ trung, cùng chí hướng thì hình ảnh “bắt tay nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng cảm, thân ái, yêu thương của những người chiến sĩ.
Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm trong cuộc chiến:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
Họ trò chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, thân mật. Họ dựng bếp Hoàng Cầm giữa trời, “võng mắc chông chênh” sau những giây phút căng thẳng giữa chiến trường. Hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” là hai nét vẽ hiện thực làm sống lại hiện thực chiến trường. Các anh vừa nấu cơm vừa chợp mắt trên cái “võng mắc chông chênh”. Bữa cơm chiến trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm vui tình đồng đội:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
(Tố Hữu)
Để rồi từ đây, cái định nghĩa về gia đình của các anh chiến sĩ mới ngộ nghĩnh làm sao!
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ để hình thành khi “chung bát đũa”. Nhưng chỉ trong một thoáng chốc để rồi sau đó người chiến sĩ lại tiếp tục hành quân:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Điệp ngữ “lại đi” đã diễn tả một công việc quen thuộc của người lính nhưng đồng thời cũng biểu lộ nhiệt tình, khí thế khẩn trương sôi nổi của họ. Trước mắt họ, “trời xanh thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng lại phù hợp với tâm hồn trẻ trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin tưởng của họ vào tương lai, vào cuộc sống.
Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc điệu, hình ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mỹ.
Bài thơ kết lại bằng một hình ảnh đầy thi vị, hiện thực nghiệt ngã giờ đây đã hòa quyện vào chất lãng mạn bay bổng:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn mạnh, làm nổi bật những khó khăn, trở ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận cần thiết của của chiếc xe đ bị bom đạn làm hư hại. Cái “không có” là kính, là đèn, là mui xe, là “thùng xe có xước”. Thế mà người chiến sĩ vẫn tiếp tục điều khiển cho xe chạy. “Xe vẫn chạy” chứ không chịu ngừng nghỉ, nằm yên. Điều gì đã thôi thúc người chiến sĩ tận tụy, quên mình nhiệm vụ, coi thường những gian khổ, khó khăn? Tất cả là bởi một mục đích, một lý tưởng cao cả “vì miền Nam phía trước”. Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức căm thù giặc cao độ đã giúp cho người chiến sĩ sẵn sàng quên mình vì nhiệm vụ. Ước mong cao đẹp nhất là mong muốn giành được độc lập, tự do cho “Tổ quốc”, mang lại hòa bình độc lập cho quê hương. Cội nguồn sức mạnh của người chiến sĩ lái xe, sự dũng cảm kiên cường của người chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Thì ra “trái tim” cháy bỏng tình yêu thương Tổ quốc đồng bào miền Nam ruột thịt đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh, tự tin để cầm chắc tay lái đưa xe đi tới đích. Hình ảnh bất ngờ ở cuối đã lý giải được tất cả mọi vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn chứa một ý tưởng sâu sắc về một chân lý thời đại. Sức mạnh để chiến thắng không phải vũ khí hiện đại, phương tiện tối tân, đầy đủ tiện nghi mà chính là con người với trái tim nồng nàn yêu thương đất nước nhân dân, sôi sục lòng căm thù quân giặc.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất, thể hiện phong cách thơ của Phạm Tiến Duật. Chẳng ngẫu nhiên mà nhan đề bài thơ lại là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Tiểu đội là đơn vị cơ sở nhỏ nhất trong biên chế của quân đội ta. Cái tên gợi cho người đọc tính khốc liệt của chiến tranh. Một cái tên trần trụi, không mỹ miều, hàm súc như bao nhan đề bài thơ khác, đối lập với quan niệm cái đẹp văn chương thuần túy. Cái đẹp với Phạm Tiến Duật là từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống mà ùa vào thơ.
Tác giả thêm vào hai chữ bài thơ là muốn thể hiện quan niệm thơ nói, thơ kể nhưng vẫn rất thơ. Chất thơ vút lên từ hiện thực, từ tâm hồn hào hoa lãng mạn, lạc quan yêu đời của người lính – tuổi trẻ Việt Nam giữa khói bom lửa đạn với đầy niềm tự hào, chiến đấu và chiến thắng.
Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Nhà thơ đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời gian khổ mà hào hùng, đã quên mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha xưa kia và để hoàn thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta tự hào về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn:
“Ôi đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi
Mưa bom, bão đạn lòng thanh thản
Nhạt muối, vơi cơm miệng vẫn cười”
(Tố Hữu)
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 1
Tác giả Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông có nhiều bài thơ viết về hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam qua hình tượng của những cô gái thanh niên xung phong, những anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những sáng tác để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Mở đầu bài thơ là một hình ảnh mới mẻ, lạ lẫm: những chiếc xe không có kính, câu thơ vừa giới thiệu lại vừa giải thích về những chiếc ce đặc biệt ấy:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Hình ảnh rất chân thực và sống động, lột trần ra chiếc xe bị tàn phá bởi chiến tranh, từ “không” được nhấn mạnh tới ba lần thể hiện sự hiên ngang, chủ động của người lính lái xe.
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Những chiếc xe ấy qua các miêu tả ta thấy nó đã bị biến dạng và phá hủy gần như toàn bộ, thế mới thấy được chiến tranh tàn khốc và ác liệt làm sao. Tuy nhiên trong con mắt của tác giả nói riêng và những người lính lái xe nói chung, chiếc xe ấy vẫn hiện lên rất độc đáo và ngang tàng. Trở thành biểu tượng đặc trưng của thời kì kháng chiến chống Mỹ, đồng thời còn làm nổi bật lên hình ảnh người lính lái xe:
“Ung dung buồng lái ta ngồi…
Như sa vào buồng lái”
Lời thơ ngắn và nhịp thơ nhanh, điệp từ “nhìn” được lặp lại tạo nên một không khí sôi động, hào hùng và khẩn trương nhưng vần đầy ung dung, lạc quan. Người lính ấy ung dung nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng trực tiếp mà không vần qua lớp kính nào, lời thơ như chính là lời ca tiếng hát của một bài hát vui tươi, hào hùng. Đi cùng với những thiếu thốn của chiếc xe là những khó khăn mà người lính phải đối mặt:
“Không có kính, ừ thì có bụi…
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Đoạn thơ đã thể hiện tinh thần hiên ngang, thái độ không run sợ và coi thường mọi khó khăn, những người lính đang độ tuổi đôi mươi tràn đầy sức sống, vừa kiên cường, lại trẻ trung và hóm hỉnh. Những người lính đã trở thành người đồng chí, đồng đội, gắn bó keo sơn với nhau:
“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Họ là những người vốn xa lạ không quen nhau nhưng trong gian khổ chiến đấu họ đã gắn bó với nhau như gia đình. Bởi họ không chỉ cùng nhau ăn, sống, chiến đấu cùng chung nhiệm vụ mà trong họ còn mang dòng máu chung – dòng máu khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Tình yêu đất nước chính là động lực mạnh mẽ nhất giúp người lính có thêm sức mạnh vượt qua khó khăn, tình yêu Tổ quốc, thương đồng bào đã hóa thành ý chí kiên cường và vững chắc.
Với chất thơ trẻ trung, ngang tàng, sống động và chân thực, bài thơ đã trở nên rất đặc biệt và có hồn. Đi sâu vào trong tâm trí người đọc là kí ức thời chiến tranh và hình tượng người lính anh dũng, kiên cường.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 2
Thời kháng chiến chống Mĩ thấy thế mà cam go lắm, ác liệt lắm. Vậy mà Phạm Tiến Duật lại là nhà thơ trẻ tài cao trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ của ông có giọng điệu sôi nổi trẻ trung hồn nhiên tinh nghịch và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính in trong tập Vầng trăng quầng lửa năm 1969 là bài thơ hay độc đáo về hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn hiên ngang tinh thần lạc quan về một ngày mai tươi sáng.
Mỗi đề tài đều mang một nét hay một nét độc đáo. Người viết đề tài nào cũng phải dành tình yêu và sự hiểu biết của mình vào thì mới thành công. Phạm Tiến Duật nhà thơ trẻ tuổi tài cao chọn đề tài người lính trong thời kháng chiến chống Mĩ. Có thể nói đó là mảng đề tài hay và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ có cách viết mới mẻ độc đáo rất cuốn hút người đọc, người nghe. Đó là hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn vì mục đích tiến về Miền Nam thân yêu ruột thịt.
Như tựa đề bài thơ, phần nào Phạm Tiến Duật giúp chúng ta hiểu rõ nội dung là miêu tả về hình ảnh những chiến xe không kính vẫn băng băng trên đường Trường Sơn
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Nhiều từ “không” được lặp đi lặp lại trong dòng thơ mở đầu như một là một lời khẳng định: xưa kia xe vẫn có kính, nó vẫn là chiếc xe lành lặn đẹp đẽ. Nhưng hôm nay “xe không có kính” vì “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh chống Mĩ ấy tàn khốc lắm, ác liệt lắm đã làm những chiếc xe rơi vỡ mất đi nhiều phụ tùng
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Đúng như vậy đó, chiếc xe ấy chẳng những “không có kính” rồi xe “không có đèn”. Cụm từ “không có” cứ thế mà lặp đi lặp lại để thấy chính chiến tranh đã gây ra bao thiệt hại về tài sản. Dường như tác giả Phạm Tiến Duật cũng dành sự xót thương cho hình ảnh chiếc xe trên đường Trường Sơn. Nó vẫn là con chiến mã quan trọng, là một anh hùng thầm lặng cho những người lính vì mục đích tiến về Miền Nam thân yêu ruột thịt.
Nếu nhắc đến hình ảnh những chiếc xe không kính trên tuyến đường Trường Sơn đã làm người đọc xúc động như thế thì hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn lại mạnh mẽ và lạc quan đáng khâm phục
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Cụm từ “ung dung” vừa diễn tả hành động lại vừa bộc lộ trạng thái rất tự tại rất thoải mái. Những người lính trẻ cứ như đang tận hưởng tiết trời mát mẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Họ luôn “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” một cái nhìn đầy lạc quan đầy niềm tin và hi vọng. Đắt giá nhất là cụm từ “nhìn thẳng” được tác giả sử dụng như một lời khẳng định: dù có bất kì chuyện gì xảy ra những người lính ấy vẫn luôn luôn mạnh mẽ tiến về phía trước về Miền Nam yêu thương.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Một khung cảnh hiện lên quá hoàn hảo dưới ngòi bút viết như họa của Phạm Tiến Duật. Khung cảnh ấy có gió, có cánh chim chiều, và có cả ánh sao đêm,… Với hình ảnh nhân hóa “gió vào xoa mắt đắng”, liệu có ai đặt câu hỏi rằng tại sao tác giả lại sử dụng như thế? Vì xe không có kính mà những người lính lại chạy xe xuyên đêm nên cảm giác “ đắng” như thế ấy! Họ luôn ngày đêm nỗ lực chạy thật nhanh thật nhanh tiến về Nam. Mỗi con đường xe chạy qua đều in sâu trong tim và chứa chan đầy tình cảm. Các chữ “ như sa, như ùa” đã cho ta thấy được tốc độ chạy thật phi thường của những chiếc xe không kính, lướt nhanh qua bom đạn dày đặc.
Xe không kính làm các anh chiến sĩ lái xe không chỉ chịu “gió xoa mắt đắng” mà có có “bụi”,”có mưa”. Ôi! Gian khổ biết bao
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Biết bao nỗi cực nhọc mà những người lính ấy phải gánh chịu. Từ “ừ” tác giả vang lên một cách đầy thách thức, thách thức khó khăn mà mình đang gánh chịu. Họ “ừ” một cách hiên ngang tràn đầy hi vọng về ngày mai tươi sáng. Dọc tuyến đường Trường Sơn ngày ấy có bom có gió có bụi. “Bụi phun tóc trắng như người già” với những từ ngữ gợi tả đủ để ta mường tượng ra cảnh tượng ấy đáng thương như thế nào! Chúng ta phải biết trân trọng, phải biết ơn những gì mà các anh chiến sĩ ngày ấy đã làm cho chúng ta hôm nay.
Ngày hôm nay, khi đi trên đường nếu mưa ta còn cảm thấy vô cùng cực nọc dù xe có đủ mọi phụ tùng. Vậy mà trong thời khắc chiến tranh cam go ấy, xe không kính, không đèn, phải chịu đựng gió, bụi, bom giật, bom rung,..
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn là trừu tượng nữa mà được tính bằng những cung đường “lái trăm cây số nữa”. Tác giả sử dụng từ chỉ số lượng “ trăm cây số” để chỉ còn đường ấy dù có xa dù có cách trở thì họ vẫn băng băng về trước đầy hiên ngang. Cung đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu. Câu thơ bảy từ mà có đến sáu thanh bằng diễn tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!”
Con đường phía trước còn dài còn khó khăn chồng chất, nhưng tinh thần hiên ngang lạc quan và vui vẻ của các anh thật mạnh mẽ. Các anh vẫn tếu táo, vẫn hồn nhiên
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây hợp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Sau những ngày tháng lái xe gian khổ giữa rừng Trường Sơn phải chịu mưa, gió, bụi, bom đạn,… Hôm nay họ đã có thể gặp lại đồng đội. Những cái “bắt tay” vội vàng nhưng ấm nồng tình đồng chí đồng đội. Cái “bắt tay” như tiếp thêm sức mạnh luôn tiến về phía trước dù có khó khăn và thử thách.
Thời chiến tranh luôn luôn gian khó, họ là những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn kiên trung bất khuất. Con đường giữa rừng núi ấy gặp lại anh em, cùng dựng nồi nấu bếp ăn một chén cơm mà ấm tình đồng đội
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
“Bếp Hoàng Cầm” là bếp dã chiến của bộ đội được đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản ra địch sẽ không phát hiện. Mọi thứ đều gian khổ như thế ấy nhưng tinh thần họ vẫn rất vui vẻ, lạc quan. Vẫn “dùng chung bát đũa” và xem nhau là đại gia đình lớn, là anh em ruột thịt. Với hình ảnh ẩn dụ “ xanh thêm” và nghệ thuật điệp từ “lại đi” như một lời cỗ vũ, một lời động viên các anh hãy luôn mạnh mẽ kiên cường tiến về phía trước. Rồi cũng sẽ có ngày tìm thấy màu xanh hi vọng màu xanh hòa bình và độc lập!
Hai câu thơ cuối bài là hai câu thơ đắt giá mà Phạm Tiến Duật viết nên một niềm hi vọng cháy bỏng dành cho các anh lái xe trên tuyến đường Trường Sơn anh dũng, lạc quan:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
“Trái tim” ấy chính là hình ảnh hoán dụ đầy yêu thương. Trái tim nhỏ của từng chiến sĩ tích góp thành một trái tim lớn hướng trọn về Miền Nam thân yêu ruột thịt. Nhưng trái tim ấy cũng chất chứa bao nỗi căm hờn, phẫn uất? Họ căm ghét chiến tranh tàn khốc đã gây ra bao nỗi khốn cùng cho nhân dân, cho những người lính không ngại khó khăn vất vả. Đó chính là trái tim có tình yêu và cả lòng căm hận rất sâu sắc. Với ngòi bút tinh tế sâu sắc và cách dùng từ độc đáo đã góp phần làm hình ảnh mà tác giả muốn truyền tải càng rõ nét hơn trong lòng độc giả.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật qua ngòi bút tinh tế, hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ,… đã giúp hình ảnh người lính lái xe trên đường Trường Sơn càng hiên ngang dũng cảm. Họ là những con người kiên cường, bất khuất dù khó khăn gian khổ. Bài thơ đã tái hiện lại một cách đầy sống động về thời kháng chiến chống Mĩ oanh liệt trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử và những con người dũng cảm, lạc quan mãi mãi đi vào lịch sử thơ ca thời kháng chiến chống Mĩ!
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 3
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Với phong cách trẻ sôi nổi, hồn nhiên mà sâu sắc, những bài thơ viết về hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam qua hình tượng những cô gái thanh niên xung phong và những anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến đã để lại trong người đọc ấn tượng sâu đậm. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ như thế.
Những chiếc xe không có kính – hình ảnh thơ độc đáo đã khiến cho nhan đề bài thơ trở nên hết sức đặc biệt – tưởng chừng như tác giả sắp viết một câu truyện dài vậy. Hình ảnh ấy đã làm nổi bật lên hình tượng những người lính trẻ, những người lái xe ở thời kì đó: trẻ trung, sôi nổi và có gì đó ngang tàng, hóm hỉnh. Không biết nhà thơ đã bao giờ ngồi trong buồng lái hay trực tiếp cầm vô lăng chưa mà giọng thơ lại sôi động, tự nhiên và đầy hứng khởi đến vậy?
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Từ ngôn từ, phong cách, nội dung đến nhịp điệu thơ đều rất tự nhiên, mộc mạc, có sức gợi tả, gợi cầm. Câu thơ làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng: những chiếc xe không kính. Mặt khác, lời giải thích của tác giả về những chiếc xe đặc biệt ấy cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe đã bị phá huỷ bởi bom giật, bom rung – những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ. Hai câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, tráng lệ, không có hình ảnh tượng trưng, giọng thơ có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu đầy ấn tượng cho bài thơ. Rồi ở khổ cuối cùng của bài thơ, Phạm Tiến Duật lại một lần nữa tái hiện lại hình ảnh chiếc xe:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Những chiếc xe ấy bị biến dạng, bị phá huỷ gần như là toàn bộ. Bom đạn, chiến tranh mới khốc liệt làm sao: sắt thép còn như thế nữa thì huống chi con người. Vậy mà, những chiếc xe ấy, dưới con mắt của Phạm Tiến Duật, vẫn hiện lên một cách rất độc đáo, rất có hồn, rất ngang tàng. Và vô hình trung, chúng đã trở thành biểu tượng đặc trưng của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Và có lẽ vì thế, mà chúng đã làm nổi bật lên hình ảnh những người lính lái xe – thế hệ trẻ Việt Nam hiện lên trong cuộc kháng chiến trường kì. Thơ như lời nói, lời kể chân tình:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhịp thơ ngắn, nhanh, điệp từ nhìn lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động cho câu thơ. Rồi sau đó, lại là lời kể về những sự vật được nhìn thấy trên đường:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Những người lính lái xe vẫn ung dung, vẫn nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Lời thơ mà nhịp nhàng, sôi nổi như lời ca, tiếng hát, khiến không khí bài thơ thật vui tươi, sôi động.
Khi chiếc xe đã bị phá huỷ, nát tan đến như vậy thì biết bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ vì xe không có kính:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Thế nhưng, không có kính thì tác giả lại có bụi rồi có mưa tuôn, mưa xối. Cấu trúc thơ lặp đi lặp lại – ừ thì – đã làm toát lên thái độ bất chấp, không hề run sợ, coi thường mọi khó khăn. Những câu thơ như vang lên tiếng cười vui vẻ, cười để lạc quan yêu đời, để phớt lờ mọi khó khăn, để động viên mình và động viên đồng đội. Và niềm lạc quan ấy còn được thể hiện bằng hành động:
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Và:
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không chỉ vậy, họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn, khăng khít. Sự tụ họp lại của những chiếc xe đồng cảnh ngộ đã gắn kết những người lính lại với nhau và qua của kính vỡ họ làm quen với nhau:
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Chao ôi! Kì lạ làm sao! Những con người ấy vốn dĩ không hề quen biết vậy mà giờ đây, trong gian khổ, họ thân thiết gắn bó, họ chào nhau như những người bạn đã quen. Và rồi kỉ niệm như ùa về trong tâm trí nhà thơ. Có lẽ vì ông cũng là một người lính nên ông thấu hiểu, đồng cảm tình đồng đội, đồng chí:
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Gia đình – hai tiếng thân thương gợi hình ảnh những con người cùng huyết thống. Họ, những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu nóng – dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam, giải phóng đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Tuy chiếc xe có bị phá huỷ, nát tan đến mức nào, dù gian khổ khó khăn bao nhiêu, nhưng chỉ cần trong xe có một trái tim. Đúng vậy! Chính tình yêu Tổ quốc đã cầm lái, đã là động lực thúc đẩy, giúp những người lính có thêm sức mạnh trước mỗi khó khăn. Lời thơ nhẹ nhàng như một lời khẳng định chắc nịch, ngắn gọn. Câu thơ kết của bài thơ có lẽ là câu thơ hay nhất đã kết lại sức mạnh của con người chính là ở tình yêu, tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào và tình yêu hoá thành ý chí – kiên cường và vững bền. Nhưng đồng thời, nó cũng mở ra, gợi ra cánh cửa ánh sáng: miền Nam, nơi mà người dân đang trông ngóng cách mạng trong từng khoảnh khắc.
Phạm Tiến Duật với lời thơ, chất thơ trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm, có phần tếu táo đã làm cho bài thơ trở nên thật đặc biệt, rất có hồn. Ngôn từ giản dị, thơ mà có nhạc, trong nhạc có thơ, hình ảnh sáng tạo mà vẫn đầy chân thực… Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên dấu ấn đặc trưng cho tác phẩm – in sâu trong tâm trí người đọc một thế hệ trẻ anh hùng. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ gian khổ, ác liệt.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 4
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây…
(Trường Sơn đông, Trường Sơn tây)
Năm 1970, tập thơ Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật ra đời. Tiếng thơ của người chiến sĩ hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn cất lên hào hùng, trẻ tráng và hồn nhiên kì lạ. Thơ Phạm Tiến Duật thể hiện tình cảm yêu nước và chí khí anh hùng của thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống Mĩ qua những hình ảnh cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Lửa đèn, Trường Sơn đông, Trường Sơn tây, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em, Cô thanh niên xung phong,… là những bài thơ rất nổi tiếng của chàng lính trẻ làm thơ này.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được anh viết vào năm 1969 – khi cuộc chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Máy bay giặc Mĩ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống con đường chiến lược mang tên con đường Hồ Chí Minh. Các trọng điểm mịt mù lửa khói suốt đêm ngày. Những đoàn xe vận tải quân sự vẫn nối đuôi nhau đi lên phía trước. Bài thơ đã ghi lại những nét ngang tàng, dũng cảm và lạc quan của người chiến sĩ lái xe trong binh đoàn vận tải quân sự, qua đó ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đánh Mỹ.
Bài thơ làm hiện lên chiếc xe không kính đang vượt qua bom đạn băng băng tiến ra tiền phương. Một hình tượng thật độc đáo vì xưa nay ít có, ít thấy loại xe không kính qua lại trên mọi nẻo đường. Thế mà, trên con đường chiến lược Trường Sơn vẫn có loại xe như vậy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe “không kính “đang vượt qua mưa bom bão đạn, đi qua mọi địa hình: đèo cao, dốc thẳm, khe suối, ngầm sông, chạy trong mưa gió, đêm tối mịt mùng, để chở hàng, tiếp viện cho chiến trường miền Nam. Hình tượng độc đáo vì chiếc xe mang sức mạnh thần kì của một dân tộc đang chiến đấu vì một quyết tâm sắt đá “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Nó còn thể hiện cuộc chiến đấu diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược Trường Sơn là vô cùng ác liệt, dữ dội, con người và binh khí kĩ thuật mang tầm vóc kì vĩ sử thi hào hùng.
Hai câu thơ đầu nói rõ vì sao xe “không có kính”. Cấu trúc câu thơ dưới hình thức “hỏi-đáp”. Ba chữ “không” đi liền nhau, hai nốt nhấn “bom giật, bom rung” biểu lộ “chất lính” trong cách nói phóng túng hồn nhiên. Câu thơ đậm đặc chất văn xuôi, nhưng đọc lên nghe vẫn thú vị:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Mười bốn câu thơ tiếp theo khắc họa hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn qua một loạt hình ảnh hoán dụ: con mắt, mái tóc, tim, mặt, nụ cười… Một tư thế ngồi lái “ung dung” tuyệt đẹp: thong thả, khoan thai. Những cái nhìn khoáng đạt, nhìn thấp, nhìn thẳng, nhìn cao, nhìn xa. Dũng mãnh và hiên ngang:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Hai chữ “ta ngồi ” với điệp từ “nhìn ” láy lại 3 lần; giọng thơ, nhịp thơ mạnh mẽ, đĩnh đạc.
Phạm Tiến Duật đã dành trọn một khổ thơ nói lên những gì người chiến sĩ “nhìn thấy”. Những câu thơ nối tiếp xuất hiện với bao hình ảnh chẳng khác nào một đoạn phim quay nhanh:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Có gió thổi, có cánh chim chiều và cả ánh sao đêm. Gió được nhân hóa và chuyển đổi cảm giác đầy ấn tượng: “gió vào xoa mắt đắng”. Xe chạy thâu đêm, xe lại không có kính nên mới có cảm giác “đắng” như thế. Con đường phía trước là con đường chiến lược cụ thể, nó còn mang hàm nghĩa, “chạy thẳng vào tim”, con đường chiến đấu chính nghĩa vì lẽ sống, vì tình thương, vì độc lập tự do của đất nước và dân tộc. Các từ “nhìn thấy”… “nhìn thấy… ” “thấy… “với các chữ “sa”, chữ “ùa” góp phần đặc tả tốc độ phi thường của chiếc xe quân sự đang bay đi, đang lướt nhanh trong bom đạn!
Nếu khổ thơ trên nói đến “gió” thì khổ thơ tiếp theo nói đến “bụi”. Gió bụi tượng trưng cho gian khổ, thử thách. Chữ “ừ” vang lên như một thách thức, một chấp nhận nhưng chủ động của người chiến sĩ lái xe:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Bao chi tiết hiện thực đầy ắp vần thơ. Một mái tóc xanh của chàng trai qua mấy dặm trường có sự đổi thay đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Một hình ảnh so sánh hóm hỉnh, độc đáo, một kiểu hút thuốc rất “lính”. Một nụ cười lạc quan yêu đời và hồn nhiên “ha ha” cất lên từ một gương “mặt lấm “khi đồng đội gặp nhau: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!”.
Sau “bụi” nói đến “mưa”: “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Thế là người lính nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mưa đã “tuôn” tất nhiên phải “xối”. Bao nhiêu áo quần ướt sạch vì ngồi trong buồng lái mà “như ngoài trời”. Chấp nhận, ngang tàng, phơi phới lạc quan:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!
Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn là trừu tượng nữa mà được tính bằng những cung đường “lái trăm cây số nữa”. Cung đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu. Câu thơ 7 từ mà có đến 6 thanh bằng diễn tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!”.
Hai khổ thơ thứ 5, thứ 6 ghi lại hình ảnh tiểu đội xe không kính và cuộc trú quân giữa rừng. Sau những chặng đường gian khổ, những tháng ngày mưa gió, bụi mù và bom đạn, họ gặp lại nhau, cái bắt tay cũng vô cùng độc đáo. Trong niềm vui gặp gỡ đã có nhiều mất mát hi sinh:
… Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Có bữa cơm hội ngộ. Tình đồng đội cũng là tình anh em gia đình ruột thịt. Cảnh mắc võng dã chiến “chông chênh ” bên đường. Rồi đoàn xe “lại đi, lại đi”, nối tiếp nhau ra tiền phương. Trên đầu họ, trong tâm hồn họ “trời xanh thêm”, chứa chan hi vọng, lạc quan dạt dào:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
Khổ cuối bài thơ làm nổi bật cái dữ dội và khốc liệt của chiến tranh: Chiếc xe vận tải quân sự mang trên mình đầy thương tích. Đã có biết bao chiến sĩ lái xe dũng cảm hi sinh. Chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường, 3 cái “Không có” và chỉ có 1 cái “có”: “Không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước. Sau cái “thùng xe có xước”, người chiến sĩ lái xe tự hào khẳng định cần “có một trái tim “trong xe. “Có trái tim?” ấy là sẽ có tất cả: “Trái tim”- hình ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh chiến đấu, ý chí kiên cường của người chiến sĩ lái xe trẻ vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thân yêu, vì sự nghiệp thống nhất đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước;
Chỉ cần trong xe có một trái tim
“Trái tim” ấy là trái tim yêu thương, trái tim sục sôi căm giận? Phải chăng câu thơ của Phạm Tiến Duật khơi nguồn cảm hứng từ câu nói nổi tiếng của Hồ Chủ tịch kính yêu: “Miền Nam luôn luôn trong trái tim tôi”?
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là một bài thơ hay. Chất hiện thực ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn thời đánh Mĩ đã kết hợp một cách hài hòa với cảm hứng sử thi tạo nên những vần thơ “góc cạnh” đầy ấn tượng. Nếu có gió, bụi, mưa, cánh chim, ánh sao sa vào, ùa vào buồng lái chiếc xe không kính thì cũng có những câu thơ rất gần với lối nói thường đậm chất văn xuôi tràn vào bài thơ. Có nhiều câu thơ mang cái dáng vẻ thô mộc, bình dị rất lính tráng một thời trận mạc:
– “Không có kính không phải vì xe không có kính,
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi…”
– “Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già…”
– “Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời…”
– “Không có kính, rồi xe không có đèn
– Không có mui xe, thùng xe có xước…”
Nếu tước đi những câu thơ ấy, thay vào bài thơ bằng những câu óng ả êm xuôi, chắc chắn giọng điệu, chất thơ, hồn thơ của Bài thơ về tiểu đội xe không kính sẽ chẳng còn gì nữa. Đúng như Vũ Quần Phương đã nhận xét: “Chỗ đặc sắc của thơ Phạm Tiến Duật: lấy cuộc sống để nói tình cảm. Cái sâu sắc tình cảm trong thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa.
Hình tượng những chiếc xe không kính thật là li kì, độc đáo. Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là những chiến binh sống và chiến đấu trong tư thế hiên ngang, quả cảm bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm, lạc quan, sôi nổi yêu đời, hi sinh chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Ngoài các ẩn dụ, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, Phạm Tiến Duật rất thành công trong sáng tạo các hình ảnh hoán dụ (gió, bụi, mưa, mắt, tóc, tim,…) khắc họa vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp ý chí của người chiến sĩ lái xe tiền phương.
Con đường chiến lược Trường Sơn là một chiến tích mang màu sắc huyền thoại của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã làm sống lại một thời gian khổ, oanh liệt của anh bộ đội Cụ Hồ. Chất anh hùng ca dào dạt bài thơ. Bài thơ cũng là một chứng tích tuyệt đẹp của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn anh hùng.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 5
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, những chiến sĩ lái xe trên đường chiến lược Trường Sơn đã đi vào văn học với tư cách là những anh hùng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ hay viết về những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn.
Mở đầu bài thơ đã thấy cái dữ dội của chiến tranh và nổi bật tư thế của người chiến sĩ lái xe:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Phạm Tiến Duật thuộc vào loại những nhà thơ thích đùa. Giọng điệu tưng tửng “Không có kính không phải vì xe không có kính” nhà thơ được truyền tinh thần lạc quan của các chiến sĩ lái xe trước sự ác liệt của chiến tranh. Bằng giọng điệu bông đùa, nhà thơ giải thích lí do “xe không có kính”:
“Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.”
Đối lập với hình ảnh dữ dội của chiến tranh là thái độ “ung dung” của người chiến sĩ lái xe. Hình ảnh “ung dung” được đảo ngược càng nhấn mạnh tư thế của người lái xe. Và nhà thơ đã dẫn đến phát hiện bất ngờ:
“Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Phát hiện nào cũng gây ấn tượng, ấn tượng về nỗi gian khổ của người lính lái xe ra trận (Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng )và ấn tượng về tình yêu đất nước của người chiến sĩ lái xe (Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim); ấn tượng về tinh thần lãng mạn của họ:
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Những hình ảnh “như sa”, “như ùa” diễn tả sự vận động gấp gáp của đoàn xe ra trận.
Tác giả lại thay đổi nhịp điệu, từ câu thơ nhịp 2/2/2 (Nhìn đất/ nhìn trời/ nhìn thẳng), nhịp 2/2/3 (Như sa/ như ùa/ vào buồng lái) đến câu thơ 3/1/3 (Không có kính/ ừ / thì có bụi). Và từng cặp đối lập vừa diễn tả nỗi gian khổ của người lính vừa diễn tả niềm lạc quan của họ:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già”.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!”
Cái hay ở đây là tác giả đã miêu tả được nét đặc trưng về nỗi gian khổ của người lính lái xe “không có kính”. Câu thơ “Bụi phun tóc trắng như người già” gợi nhớ câu thơ của Quang Dũng “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Thật đúng là một sợi tóc cũng làm ta kinh ngạc về hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ
Hai cặp đối lập này, tác giả vẫn tiếp tục phát hiện nỗi gian khổ của người lính lái xe không có kính và cốt cách của họ:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Những hình ảnh “Bụi phun tóc trắng như người già” hay “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” gợi lên tình thương đối với những người chiến sĩ lái xe ra mặt trận.Câu thơ Phạm Tiến Duật chẳng những hay về hình ảnh mà còn hay về âm điệu. Những thanh trắc (có kính, ướt áo, xối, lái …) phô diễn được cái nghiệt ngã của người lái xe trên đoạn đường chiến tranh. Những thanh bằng, đặc biệt là câu kết của đoạn thơ gần như toàn thanh bằng êm ru, một phút yên ả trong tâm hồn người lái xe:
“Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Tình đồng đội của người lái xe cũng được Phạm Tiến Duật phát hiện những nét riêng. Họ tập hợp lại “từ trong bom rơi”, họ gặp bè bạn “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” (Thương nhau tay nắm lấy bàn tay – Chính Hữu), họ nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm bếp gần như không có khói vì khói là tai họa đối với người lái xe Trường Sơn. Họ nghỉ ngơi bằng “Võng mắc chông chênh đường xe chạy” và cũng không thiếu những phút thanh bình: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Tác giả phát hiện tất cả mọi khía cạnh của cái KHÔNG (xe không có kính) để dẫn đến một cái Có (có một trái tim) thế là chủ đề sâu sắc của bài thơ được phát triển trọn vẹn:
“Không có kính: rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Tác giả lại thay đổi giọng điệu, lối nói tưng tửng trong những khổ thơ đầu dần nhường cho lối nói nghiêm trang đượm vẻ thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Hình ảnh “miền Nam phía trước” vừa nói lên được nhiệm vụ nặng nề là tiếp viện cho chiến trường miền Nam của “tiểu đội xe không kính” vừa gợi lên tình cảm thiêng liêng của người chiến sĩ lái xe đối với miền Nam ruột thịt. Và tứ thơ cuối cùng (chỉ cần trong xe có một trái tim) đã cân bằng lại tất cả những gian khổ, những tàn phá của chiến tranh. Sức mạnh của tình yêu nước đã chiến thắng kẻ thù hung bạo.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ hay và độc đáo. Phát hiện được đề tài, nhà thơ đã khai thác mọi khía cạnh bất ngờ và thú vị. Giọng điệu thay đổi thích hợp, nhịp điệu luôn luôn biến hóa. Hình ảnh người chiến sĩ lái xe “Vì miền Nam phía trước” được khắc họa đậm nét, sinh động, nổi bật được cốt cách của những người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 6
Phạm Tiến Duật( 1941 -2007) là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, thơ của ông chủ yếu viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử, tiêu biểu là bài thơ ” bài thơ tiểu đội xe không kính” ra đời năm 1969 khi cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang diễn ra ác liệt. Qua việc khắc họa hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính nhà thơ làm nổi bật tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
Trước hết nguồn cảm hứng của bài thơ bắt đầu từ hình ảnh độc đáo: hình ảnh những chiếc xe không kính, những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là hình ảnh thực, thực đến mức trần trụi.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Cấu trúc câu thơ dưới hình thức hỏi đáp, ba từ ” không” đi liền nhau thể hiện cách nói hồn nhiên đầy chất lính, tác giả giải thích nguyên nhân xe mất kính là do bom giật, bom rung, đó chính là sự khốc liệt của chiến tranh, nhưng trải qua mưa bom bão đạn những chiếc xe càng trở nên méo mó biến dạng.
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Nhưng kì diệu thay, những chiếc xe không còn nguyên vẹn ấy vẫn kiên cường vượt qua mọi thử thách mưa bom, tiến về miền Nam yêu dấu, những chiến sĩ lái xe đã tạo nên sức mạnh ấy.
Nét đẹp đầu tiên ta bắt gặp ở những người chiến sĩ lái xe là tư thế hiên ngang, dũng cảm, tâm hồn trẻ trung, lãng mạn:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Từ láy ” ung dung” được đảo lên câu đầu kết hợp với từ ” nhìn” được lặp lại ba lần đã khắc họa một tư thế thật đẹp của người lính, họ vẫn ung dung ngồi trong buồng lái khi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau một gang tất, cụm từ” nhìn thẳng” được dùng thật hay, nhìn thẳng là nhìn vào con đường trước mắt, nhìn thẳng vào gian khổ nhưng không hề run sợ né tránh.
Không chỉ đẹp ở tư thế hiên ngang, dũng cảm người lính còn rất đáng yêu bởi tâm hồn trẻ trung lãng mạng.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những câu thơ nhanh, gấp mà nhịp nhàng như bánh xe lăn đều trên đường, bằng việc sử dụng phép điệp ngữ ” nhìn thấy” kết hợp động từ” xoa, chạy thẳng, sa, ùa”, tác giả đã diễn tả cảm giác mạnh và đột ngột của người chiến sĩ lái xe khi ngồi trong buồng lái, qua ô cửa kính vỡ trong tư thế ” nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, người lính như cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đặc biệt ” con đường chạy thẳng vào tim” là hình ảnh đặc sắc gợi lên tốc độ của chiếc xe đang nhanh trên con đường, nó cũng là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng của con đường cách mạng, con đường chiến đấu giải phóng miền Nam, người lính chỉ quan tâm tới nhiệm vụ không hốt hoảng sợ hãi dường như tất cả thiên nhiên vạn vật đồng hành cùng họ tiến về phía trước.
Xe không kính biết bao nguy hiểm nhưng người lính vẫn vượt lên hoàn cảnh bằng tinh thần lạc quan, bất chấp mọi gian khổ.
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Ngoài sự ác liệt của chiến tranh, các chiến sĩ còn phải chịu nhiều gian khổ bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên, thời tiết, những câu thơ trên đầy ắp chất sống hiện thực ở chiến trường, hiện thực đầy gian khổ nhưng các chiến sĩ đã bình thường hóa cái gian khổ ấy, chấp nhận nó như một tất yếu vẫn đùa vui, tếu táo: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”, một tâm hồn đáng yêu sôi nổi làm sao? đó còn là bản lĩnh kiên cường của những người chiến sĩ, vẻ đẹp ấy còn được tác giả khắc họa bằng giọng thơ trẻ trung như lời nói của miệng “Không có kính, ừ thì có bụi”, , gian khổ là vậy nhưng qua cách nhìn của những người lính thì vô cùng nhẹ nhàng, bởi lòng dũng cảm đã trở thành cốt lõi, bản chất người lính trong cuộc chiến đấu.
Trong gian lao thử thách tình đồng chí, đồng đội của họ càng thêm sâu nặng, thắm thiết.
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Nhịp thơ như lắng lại, những người chiến sĩ nói về đồng đội cũng như đang nói về mình, họ gặp nhau từ chỗ bom rơi, nghĩa là từ chỗ ác liệt của cuộc chiến, cũng từ nơi này họ đồng cảm chia sẻ và trở thành bạn bè, họ chào nhau bằng những cử chỉ hết sức thân mật “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”, đó là niềm vui, lời động viên và chúc mừng nhau khi vượt qua khó khăn, là niềm tự hào sau mỗi lần chiến thắng.
Cảnh sinh hoạt của người lính bữa ăn giấc ngủ được khắc họa bằng hai hình ảnh ” bếp hoàng cầm, võng mắc” tất cả đều tạm bợ nhưng cách nhìn, cách nghĩ rất cảm động: ” gia đình đấy” họ coi nhau như anh em trong nhà, càng thiếu thốn thì càng xích lại gần nhau, tiếp thêm sức mạnh để đi tiếp chặng đường mới và làm lên chiến thắng.
Điệp ngữ ” lại đi” có ý nghĩa khẳng định đoàn xe không ngừng tiến về phía trước khẩn chương và kiên cường, hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” gợi lên tâm hồn lạc quan” phơi phới tràn đầy niềm tin, hi vọng của người lính lái xe.
Bốn câu thơ cuối bài đã hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe bởi ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam và lòng yêu nước nồng nhiệt của họ:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bằng việc sử dụng biện pháp liệt kê ” không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước” kết hợp với điệp ngữ ” không có” hai câu đầu của khổ thơ không chỉ nhấn mạnh sự thiếu thốn về vật chất mà còn diễn tả sự mất mát đau thương dồn dập của tiểu đội xe không kính do bom đạn của quân thù dội xuống càng về cuối cùng càng ác liệt, nhưng điều kì lạ là những chiếc xe không còn nguyên vẹn ấy vẫn tiếp tục đi ” xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”
Câu thơ cuối cùng như đọng lại một tâm huyết, cũng như một lời giải thích cho tất cả những điều kì lạ đẹp đẽ: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Trái tim là hình ảnh hoán dụ, là hình ảnh yêu nước nồng nàn, trái tim của ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thân yêu, trái tim dũng cảm, trái tim ấy có sức mạnh vô biên, mạnh hơn mọi lỗi nguy lan, mạnh hơn mọi thứ bom đạn, mạnh hơn cả cái chết, sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là công cụ vũ khí mà chính là con người mang trái tim nồng nàn yêu nước, kiên cường dũng cảm, có thể nói bai thơ hay nhất ở câu thơ cuối, nó như con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng người lính.
Thực vậy bằng thể thơ tự do ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, giọng điệu pha chút ngang tàng, tinh nghịch, hình ảnh thơ chân thực, độc đáo ” bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật” đã khắc họa thành công bức chân dung độc đáo về người chiến sĩ lái xe Trường Sơn với những nét đẹp về tâm hồn tình cảm, tinh thần của họ chính là tiêu biểu cho vẻ đẹp của những người lính anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Chúng ta mãi yêu mến, tự hào về họ – những con người đẹp nhất trong thời đại Hồ Chí Minh.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 7
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những năm tháng sục sôi khí thế xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, nhân dân miền Bắc đã không tiếc sức người sức của, chi viện cho miền Nam ruột thịt. Những đoàn quân trùng trùng điệp điệp nối nhau ra tiền tuyến và Phạm Tiến Duật cũng có mặt trong đội ngũ ấy. Anh đã được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh ác liệt và trở thành một nhà thơ – chiến sĩ. Chùm thơ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Nhớ, Gửi em cô gái thanh niên xung phong đã được giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969.
Thơ Phạm Tiến Duật không lôi cuốn người đọc bằng những hình ảnh lãng mạn hay ngôn ngữ mượt mà, trau chuốt, âm điệu du dương… Ngược lại, người đọc thích thơ anh bởi sự sống động, tự nhiên, gân guốc, táo bạo và độc đáo. Có thể coi Bài thơ về tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà thơ – chiến sĩ này. Thông qua bài thơ, Phạm Tiến Duật ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui trẻ trung, sôi nổi cùng quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
Bài thơ khắc họa thành công một hình tượng độc đáo: những chiếc xe ô tô vận tải không có kính chắn gió mà vẫn băng băng trên đường ra trận. Bên trong cái vỏ ngoài xấu xí, xây xát của những chiếc xe không kính ấy là một bề dày thành tích chiến đấu và quý giá nhất là có một trái tim sáng ngời tinh thần yêu nước của những người lính trẻ.
Mở đầu bài thơ, tác giả giải thích nguyên nhân vì sao xe không có kính bằng lời lẽ giản dị, tự nhiên:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Lí do thế là đã rõ. Kính xe đã bị những trận bom ác liệt của giặc Mĩ làm cho vỡ hết. Lời giải thích đơn sơ nhưng khả năng gợi tả rất lớn, giúp người đọc hiểu ra rằng những chiếc xe này đã dạn dày, từng trải trên đường ra mặt trận. Giới thiệu về xe mà cũng là bước đầu giới thiệu về chủ nhân của chúng.
Từ câu thơ thứ ba trở đi, hình ảnh người chiến sĩ lái xe là nhân vật chính và những chiếc xe không kính trở thành cái nền làm nổi bật tính cách, phẩm chất đẹp đẽ của họ. Khi người lái xe mở máy cho xe lăn bánh đồng nghĩa với bắt đầu bước vào trận đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc, nhưng họ vẫn giữ được tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Tính từ ung dung đặt ở vị trí đầu câu nhấn mạnh tư thế chủ động ấy. Trong cái nhìn bao quát cả đất trời ẩn chứa niềm kiêu hãnh của người làm chủ tình thế, coi thường mọi khó khăn nguy hiểm. Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là tình cảm tất cả vì miền Nam thân yêu, là chân lí “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men… để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Ai đã từng một lần đặt chân đến Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ mới thấu hiểu những gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh, hiểm trở. Mùa mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì máy bay Mĩ liên tục trút bom đạn xuống những đoàn xe nối nhau ra mặt trận. Xe có kính người lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào. Bút pháp tả thực kết hợp với bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp bất ngờ của những câu thơ:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Cảm giác của người chiến sĩ lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được nhà thơ diễn tả cụ thể và sinh động. Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào buồng lái khiến người lái xe tưởng như nhìn thấy gió. Gió thốc làm cay đến chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt đắng thì quả là độc đáo và hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách thức cái khí hậu khắc nghiệt của rừng núi Trường Sơn. Không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn, do đó mà sự cảm nhận dường như tăng lên gấp bội. Sao trời ban đêm, cánh chim ban ngày như say như ùa vào buồng lái. Xe lao lên phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe tưởng như nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng ý nghĩa tượng trưng sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái tim người lính.
Nỗi vất vả, gian nan được Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Hai đoạn thơ tả thực đến từng chi tiết, từng hình ảnh và thật cả trong cách diễn tả. Câu thơ đậm chất văn xuôi, mộc mạc như lời nói thường ngày. Xe không kính, bụi phun tóc trắng như người già. Xe không kính, mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Điệp từ chưa cần, hình ảnh phì phèo châm điếu thuốc, giọng cười ha ha sảng khoái… làm nổi bật chất bình dị mà anh hùng của những chiến sĩ lái xe trong chiến tranh. Gian khổ tột cùng nhưng hào hùng cũng tột bậc. Đó là chất lạc quan thanh thản của một dân tộc, chất dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, phớt đời, pha chút ngang tàng, rất lính.
Trong gian lao, thử thách, tình đồng đội, đồng chí càng trở nên thiêng liêng hơn, máu thịt hơn. Bao thiếu thốn vật chất được thay thế bằng tình yêu thương đồng đội thắm thiết:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Đến đây thì mọi khó khăn, nguy hiểm đã bị đẩy lùi ra xa, làm nền cho tập thể của những chiến sĩ lái xe từ mọi chiến trường về đây họp thành tiểu đội xe không kính. Họ thương nhau còn hơn ruột thịt, sống chết có nhau, cùng chung lí tưởng và tình cảm cao đẹp: tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn tả hết tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng trong hoàn cảnh ấy. Bữa cơm nấu vội giữa trời đất bao la của núi rừng Trường Sơn, giấc ngủ chập chờn trên cánh võng chông chênh đường xe chạy đã đủ nói lên tất cả. Và lạ lùng thay, nhà thơ đã bất chợt khám phá ra điều thú vị là những khó khăn, nguy hiểm của người lính lái xe không kính lại trở thành tiện lợi bất ngờ khi họ gặp nhau trên đường ra mặt trận:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Tình đồng đội đã sưởi ấm lòng chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Họ tạm nghỉ bên nhau phút chốc để rồi lại lên đường, lại đi, lại đi đến những nơi cần hàng, cần đạn. Họ tin tưởng ngày mai trời xanh thêm và chiến thắng đang tới rất gần.
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hoà quyện với nhau:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in dấu rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam – tiền tuyến lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối là một hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản, lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong mưa bom, bão đạn quân thù xứng đáng tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời chống Mĩ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một tác phẩm tự sự nhưng đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo, độc đáo, nhịp thơ tự do, phóng khoáng… Tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của bài thơ. Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hoá thân của tác giả vào nhân vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 8
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông từng cầm súng chiến đấu và công tác trong đội ngũ những chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn, chở vũ khí quân trang từ hậu phường ra tiền tuyến: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu). Niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra trận lúc bấy giờ như ánh sáng chói chang, như gió mát lồng lộng phả vào tâm hồn nhà thơ – chiến sĩ, khiến thơ Phạm Tiến Duật có một giọng điệu thật khoẻ khoắn, tràn đầy sức sống, rất tinh nghịch, tươi vui mà giàu suy tưởng.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy. Không rõ nhà thơ đã từng bao nhiêu lần trực tiếp cầm lái, hay ngồi trong ca bin bên cạnh người lái, mà ngôn ngữ, nhạc điệu, cảm hứng và suy nghĩ trong bài lại chân thực, sống động đến vậy. Tất cả, cứ hiển hiện hồn nhiên, trực diện ngay trước bạn đọc: những chiếc xe không kính, cả tiểu đội xe, tiểu đội lính vận tải vui vẻ, tếu táo mà thật đĩnh đạc, hiên ngang, can đảm…
Mở đầu bài thơ là một hình ảnh trớ trêu: “Xe không có kính”. Kết thúc là một hình ảnh bất ngờ: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Phải chăng, tiểu đội xe không kính ấy lăn bánh thông đường mau lẹ được là nhờ… “những trái tim cầm lái” ? Xin hãy lắng nghe lời người chiến sĩ lái xe, hãy đọc thơ và suy ngẫm…
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.
Lời kể, hay lời giới thiệu đoàn xe ? Ngôn ngữ mộc mạc, nhịp điệu khoan thai mà gợi tả rõ nét. Cứ ý như một đoàn xe đang lừng lững tiến lại. Những chiếc xe kì lạ – “không có kính” (chắn gió) – mà thật anh hùng, đang vượt qua chặng đường nguy hiểm quân thù đánh phá ác liệt: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”. Trên những chiếc xe ấy, người chiến sĩ đang vững tay lái. Vừa nhấn ga cho xe lăn bánh ra trận, các anh vừa kể chuyện về mình, về đồng đội:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Đó là những câu thơ tả thực, sự thực chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh, nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm. Nào là “gió vào xoa mắt đắng”. Nào là “con đường chạy thẳng vào tim” rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa – rơi rụng, va đập, quăng ném,… vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động, cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực dường ấy: cảm giác ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt. Trái lại, tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng… Các anh vẫn “Ung dung buồng lái ta ngồi – Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng...”. H
ai câu thơ có nhịp thật cân đối: 2/ 2/ 2 và 2/ 2/ 2. Đó là sự căng thẳng của chiếc xe đang lăn bánh, sự thanh thản, bình tĩnh, tự tin của người lái. “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng… Nhìn thấy… nhìn thấy… thấy…”. Những điệp từ ấy cứ nhấn đi nhấn lại, biểu hiện sự tập trung cao độ của người lái. Hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm, gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường. Có chỗ nhịp nhàng, trong sáng như văng vẳng tiếng hát – vút cao, vui vẻ:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
….
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Nếu ở hai khổ thơ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách – dù sao cũng vẫn mơ hồ – thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn, mưa xối” – hậu quả tất yếu của những chiếc xe bị mất kính bảo vệ. Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn, “Không có kính, ừ thì có bụi… Không có kính, ừ thì ướt áo” – những câu thơ như lời nói thường, nôm na mà cứng cỏi, toát ra một thái độ bất chấp mọi khó khăn. Đằng sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ, hiểm nguy:
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
….
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Cấu trúc các câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Thanh điệu phối hợp khá linh hoạt : thanh bằng – trắc (phì phèo châm — điếu thuốc); trắc – bằng (mặt lấm – cười ha ha); rồi lại bằng – trắc (trăm cây – số nữa). Và cuối đoạn là câu thơ bảy tiếng, sáu thanh bằng (“Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”) gợi một cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui sôi nổi của tuổi mười tám đôi mươi. Nhạc vui hài hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “… phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” và một ý nghĩ táo tợn: “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa” làm cho thơ rộn rã, sôi động, luôn luôn hối hả, như sự sôi động, hối hả của đoàn xe trên đường đi tới.
Song, cũng có lúc đoàn xe dừng lại. Ấy là lúc ngồi nghỉ hoặc tới đích, giao hàng. Hai khổ thơ thứ năm và thứ sáu miêu tả những cuộc gặp gỡ, vui vầy trong không khí đoàn kết, trong tình đồng chí, đồng đội thật cảm động:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi. Khi hành quân, các anh động viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Lúc cắm trại các anh trò chuyện, ăn uống nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt: chung bát, chung đũa, “mắc võng chông chênh” … song cũng chỉ trong một thoáng chốc. Để rồi, lại tiếp tục hành quân: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm…”. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường, như văn xuôi. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của chiến sĩ vận tải Trường Sơn trong những năm chống Mĩ cứu nước. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị.
Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước vỡ,… Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “Không có kính / rồi xe không có đèn – Không có mui xe / thùng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai, bom đạn, bốn khúc “cua vòng, rẽ ngoặt”… trêu ngươi, chọc tức đoàn xe.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Hai câu cuối có âm điệu đối chọi, mà trôi chảy, êm ru, hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất đất nước. Đặc biệt toả sáng chói ngời cả đoạn thơ, bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái ?
Tình yêu Tổ quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích ? Ngữ điệu của câu thơ “Chỉ cần trong xe có một trái tim” thật nhẹ nhõm, song khả năng khắc hoạ hình tượng nhân vật và khơi gợi suy luận triết lí thật đằm sâu, trĩu nặng. Ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là con người – con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc. Có thể nói, cả bài thơ hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là “nhãn tự”, là “con mắt của bài thơ”, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ.
Trở lại với phong cách thơ Phạm Tiến Duật như phần đầu đã nêu, đọc Bài thơ về tiểu đội xe không kính, cũng như một vài tác phẩm tiêu biểu khác của ông – Lửa đèn; Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây; Nhớ,... thật thú vị khi nhận ra cái chất giọng rất trẻ, rất lính của bài thơ. Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn, nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí quyết chiến vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, cùng với ngôn ngữ, giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn. Nổi bật trong cả bài thơ là hình ảnh: trong xe có một trái tim và một chất giọng vui đùa, hóm hỉnh, lãng mạn.
Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Do đó không phải ngẫu nhiên tác giả đặt tên cho tác phẩm là Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Bài thơ, chất thơ toả ra từ thực tế cuộc chiến đấu, từ niềm vui cuộc sống của con người thời đại. Chất thơ ấy đi từ sự giản dị của ngôn từ, sự linh hoạt của nhạc điệu, sự sáng tạo bất ngờ của hình ảnh, chi tiết…, đã khắc hoạ đậm nét những vẻ đẹp phẩm giá con người, và cuối cùng cất bổng lên, hoà nhập với âm hưởng sử thi và cảm hứng lãng mạn của cả giai đoạn văn học Việt Nam trong ba thập kỉ chiến tranh chống xâm lược – từ năm 1945 đến năm 1975.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 9
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Những sáng tác của ông lôi cuốn người đọc không phải bằng ngôn từ hoa lệ, trau chuốt mà bằng sự mạnh mẽ, bằng hiện thực cuộc sống. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho phong cách sáng tác độc đáo đó. Hình ảnh người lính hiện lên đậm nét qua ngòi bút sắc sảo của Phạm Tiến Duật.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ tàn khốc, ác liệt đã khiến nhân dân phải rơi vào cảnh lầm than, đất nước điêu đứng. Những người chiến sỹ vượt qua gian lao để làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ được đặc tả chân thực, sâu sắc qua những vần thơ của Phạm Tiến Duật.
Tác giả mở đầu bài thơ bằng một lời khẳng định chắc nịch:
Không có kính không phải vì xe không có kính
om giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá nhưng tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Tác giả đưa ra một lý do hiển nhiên, đủ sức thuyết phục cho việc chiếc xe không có kính. Hai từ “không” được đặt trong một câu thơ đã khẳng định rằng đó là sự thật hiển nhiên, bọn Mỹ độc ác đã trút bao nhiêu hận thù xuống mảnh đất đầy đau thương này. Những lời thơ của tác giả gần gũi với lời ăn tiếng nói của mỗi người nên rất dễ hiểu, dễ thấm.
Sang đến câu thơ thứ ba, hình ảnh người lính bộ đội cụ Hồ hiện lên với phong thái hiên ngang, oai phong:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Với biện pháp đảo trật tự cú pháp, tính từ “ung dung” được đặt ở đầu câu đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái xe đầy kiêu hãnh, có thể làm chủ được chiến trường mà không hề nao núng. Đại từ “ta” vừa là chính mình, vừa mang ý nghĩa đại diện cho nhiều người, cho một quốc gia luôn trong tâm thế sẵn sàng đánh địch. Đây là một thủ pháp nghệ thuật đầy ẩn ý của chính tác giả. Trước mắt người chiến sỹ là trời đất bao la, rộng lớn, phải tiến về phía trước thì mới có thể giành được chiến thắng. Từ “nhìn” ở câu thơ tiếp theo được lặp lại 3 lần như khẳng định sự kiên trì, vững vàng và tập trung cao độ cho trận chiến.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Hai câu thơ này đã có sự chuyển đổi cảm giác thật tinh tế, nhạy cảm. Từ “nhìn” không còn giữ nguyên nghĩa gốc nữa mà đã chuyển sang ý nghĩa khác. Lúc này không những nhìn thấy đường, thấy trời đất, mà thấy cả “gió vào xoa mắt đắng”, “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Có lẽ trong lòng người chiến sỹ đang có một ý chí quyết tâm cao độ nên mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía trước, vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.
Hiện thực chiến tranh không còn khốc liệt, đan xen vào đó là sự hóm hỉnh, vui tươi của những người lính cách mạng. Các anh đã liên tưởng đến một không gian lãng mạn, vui tươi giữa cảnh bom đạn khốc liệt. Những ngôi sao trên trời cao và những cánh chim chao liệng ở phía ngoài kia khiến người lính cách mạng cứ ngỡ như đang “sa”, đang “ùa” vào buồng lái.
Đến đoạn thơ sau tác giả đã diễn tả được sự khốc liệt của chiến tranh:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.
Hiện thực chiến tranh khốc liệt, tàn khốc được vẽ lên qua ngòi bút chân thực của tác giả. Với ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống của con người. Một từ “ừ” khiến cho câu thơ trở nên nhẹ tênh, không một chút do dự hay vướng bận. Một từ “ừ” khiến cho tâm trạng của những người lính trở nên nhẹ nhõm hơn. Sự khốc liệt của chiến tranh và thiên nhiên không làm chùn bước, ý chí của những người lính cách mạng.
Điệp từ “chưa cần” càng khẳng định tâm thế hiên ngang, bất cần đời của anh bộ đội cụ Hồ. Nhưng chính điều này đã làm nên phong cách “ngông”, phong thái ung dung cần phải có trong cuộc kháng chiến đầy ác liệt như thế này.
Và trong cuộc chiến tranh gian lao, thử thách như thế này tình cảm đồng chí, đồng đội luôn được đề cao và khẳng định:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Hình ảnh thơ thật đẹp, thật đáng ngưỡng mộ. Vượt qua bao nhiêu bom đạn, thử thách những chiếc xe từ trăm mọi ngả đường đã về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những trận chiến đã vượt qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” thực sự khiến người đọc ứa nước mắt, vì nó thật đẹp và cao cả.
Tình cảm thân thiết, gắn bó giữa những người đồng đội dường như khiến cho cuộc chiến tranh bớt tàn khốc, bớt ảm đạm hơn. Dù trong mọi hoàn cảnh thì tình cảm luôn có thể chiến thắng tất cả. Nó là sức mạnh tạo nên sự đoàn kết, niềm tin chiến thắng.
Có lẽ đoạn thơ cuối là đoạn thơ đẹp nhất, ấn tượng nhất:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Một lần nữa Phạm Tiến Duật khẳng định sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng hơn hết vẫn là ý chí, là niềm tin và sự nỗ lực vì miền Nam phía trước. Hình ảnh “trái tim” ở cuối bài thơ như mở ra một không gian nghệ thuật thật nên thơ, trữ tình.
Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình ảnh người chiến sỹ trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước vừa kiên cường, vừa hiên ngang. Đó là một hình ảnh đẹp xuyên suốt cả bài thơ.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 10
Nhà thơ Phạm Tiến Duật (1941- 2007) là nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm tiêu biểu viết về thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Thơ của ông mang phong cách tự do, phóng khoáng, vui tươi, giàu suy tưởng. Bài thơvề tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu của ông viết vào năm 1969, được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970. Bài thơ thể hiện rõ sự tinh nghịch, nhưng cũng hiên ngang, bất khuất của những người chiến sỹ trong thời kỳ kháng chiến.
Bài thơ mở đầu với câu thơ mang hình ảnh rất chân thực và độc đáo:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung, kính vỡ mất rồi.
Hai câu thơ với nét chấm phá nghệ thuật, giúp cho chúng ta dễ dàng hình dung ra bức tranh hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe quân dụng vốn dĩ có kính, trang bị đầy đủ, nhưng do bị “bom giật bom rung” nên “kính vỡ mất rồi”. Sự tàn khốc của mưa bom bão đạn đã khiến những chiếc xe biến dạng, trở nên không được bình thường, kỳ dị và độc đáo. Có thể thấy, tác giả đã diễn tả một cách vô cùng chân thực nhưng lại sâu sắc. Xe không có kính, thiếu thốn là vậy nhưng những người chiến sĩ trên xe không hề bi quan mà lại vô cùng lạc quan, tinh nghịch:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng,
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Những người chiến sĩ ngồi trong buồng lái mà ngồi có kính chắn gió, đối mặt trực tiếp với thiên nhiên, trời đất bên ngoài. Nhà thơ sử dụng những biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh và điệp ngữ, cùng nhịp thơ nhanh, nhịp nhàng, đều đặn, giúp người đọc dễ dàng hình dung đến nhịp bánh xe trên đường ra chiến trường. Những hình ảnh, sự vật cũng như cảm xúc mà các chiến sĩ nhìn thấy, trải qua thể hiện sự bình thản, ung dung với những nguy hiểm của bom đạn chiến tranh. Họ bình tĩnh, thản nhiên nên mới có thể nhìn rõ đủ đầy từ gió, con đường, cánh chim…hay là cả sao trời. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi cho ta liên tưởng đến con đường ra mặt trận, cũng như sự nguy hiểm ở phía trước, nhưng các chiến sĩ vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua.
Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả tập trung nói đến sự vất vả, thiếu thốn của những người lính trên xe. Dù khó khăn, gian khổ như vậy nhưng họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Có thể thấy, những chiến sĩ trên xe dù gian khổ nhưng không hề lùi bước. Đây như là một cơ hội để thử thách ý chí của họ. Gian khổ như vậy nhưng vẫn yêu đời, vẫn có thể cười sảng khoái mà không màng đến nguy hiểm.
Những người lính, người đồng đội ở chiến trường gắn bó bên nhau, cùng nhau trải qua gian khổ nên họ xem nhau như người thân ruột thịt. Dù họ đến từ những vùng quê khác nhau, sinh ra trong hoàn cảnh khác nhau, nhưng lại chung một lý tưởng sống, chiến đấu vì quê hương đất nước:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Sự lạc quan, niềm tin về một ngày mai chiến thắng của những người lính như khiến cho “trời xanh thêm”. Câu thơ “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” giúp ta cảm nhận rõ sự đoàn kết, đồng lòng của những chiến sỹ lái xe. Những người lính với lòng yêu nước nồng nàn, cùng tình cảm gắn bó giữa những người đồng đội sâu sắc, khiến cho họ có ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Sự tàn khốc, đau thương của chiến tranh được nhà thơ nhắc đến ở khổ thơ cuối, qua những hình ảnh “xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước”. Mặc dù khốc liệt như vậy nhưng ý chí chiến đấu của những người lính vẫn không ngừng cháy trong trái tim những người lính. Trái tim như tượng trưng cho lý tưởng, cho toàn thể dân tộc Việt Nam, một ngày mai sẽ thống nhất đất nước.
Thật vậy, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu viết về vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe. Bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình người, tình đồng chí gắn bó trong chiến tranh, cũng như lòng yêu nước nồng nàn của những người lính trong thời kỳ kháng chiến.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 11
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây
Những câu hát rộn ràng, mà vẫn đầy tha thiết được phổ từ bài thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Nhưng đến với thơ ca ông ta cũng không thể không nhắc đến tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với chất ngang tàng, khí thế, vô cùng dũng cảm kiên cường của những người lính, họ là đại diện tiêu biểu cho người lính Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ hào hùng.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính ra đời vào những năm cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra gay go và quyết liệt nhất. Ở khắp nơi các thanh niên gác lại chuyện học tập lên đường đánh giặc, xung phong vào chiến trường. Lúc này con đường Trường Sơn là con đường huyết mạch, nối liền hậu phương và tiền tuyến nên bị bom Mỹ bắn phá ác liệt. Nhưng bằng sự dũng cảm, lòng quyết tâm những chiếc xe đã vượt qua mưa bom bão đạn lên đường ra trận. Bằng ngòi bút chân thật, âm điệu khỏe khoắn, hào hùng Phạm Tiến Duật đã đem đến cho người đọc cái nhìn đầy đủ nhất về cuộc sống, chiến đấu của người lính lái xe.
Ngay từ câu thơ mở đầu, người lính đã giới thiệu về người bạn đồng hạnh của mình – những chiếc xe không kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Câu thơ vừa có gì đó ngàng tang, nhưng đồng thời cũng hết sức dí dỏm. Lời thơ tự nhiên, chân thật như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Ba chữ không đi cùng với các động từ mạnh: giật, rung giúp diễn tả cái dữ dội, ác liệt của chiến tranh , đồng thời cũng thể hiện cái nhìn lạc quan của người lính. Câu thơ như một lời phân trần, về vẻ ngoài sứt mẻ, thiếu thốn của chiếc xe.
Và đằng sau những chiếc xe thiếu thốn, vỡ kính ấy hiện lên chân dung của người lính:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Trước hiện thực gian khổ, khốc liệt của chiến tranh, người lính vẫn hết sức ung dung, đường hoàng. Họ luôn chủ động trước mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Cái nhìn thẳng ấy cho thấy tư thế hiên ngang, nhìn thẳng vào hiện thực cuộc chiến đấu mà không hề né tránh.
Những chiếc xe không kính đó còn tạo điều kiện cho người lính hòa mình vào thiên nhiên. Là những luồng gió mạnh táp thẳng vào buồng lái, khiến cho ai nấy phải cay mắt, nhưng đã được Phạm Tiến Duật hình dung hết sức dí dỏm “xoa mắt đắng” – xoa dịu cái rát bỏng của luồng gió Trường Sơn. Nào đâu chỉ có vậy, còn chim chóc và sao trời cùng hòa chung với người lính một nhịp thở. Lúc này âm thanh của tiếng chim đã đẩy lùi mọi khó khăn, nguy hiểm, nhường chỗ để họ cảm nhận từng vẻ đẹp của thiên nhiên. Có thể nói bằng cái nhìn bình thản, lạc quan, tư thế ung dung người lính đã chiến thắng mọi bom đạn của kẻ thù.
Ở hai khổ thơ tiếp theo, vẻ đẹp của người lính tiếp tục được khắc họa khi đối mặt với khó khăn, gian khổ ấy chính là khói bụi Trường Sơn:
Không có kính, ừ thì có bụi
…
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
Khổ thơ đã sử dụng thủ pháp lặp cấu trúc kết hợp với điệp từ “ừ thì” “chưa cần” khiến cho cả khổ thơ như một lời thách thức trước những thử thách của thiên nhiên. Đây là những câu thơ miêu tả hết sức chân thực về những khó khăn mà người lính lái xe phải trải qua: đối mặt với mưa rào, đối mặt với khói bụi khi trời nắng nóng. Nhưng đối với họ những thử thách đó chỉ làm cho họ thêm phần kiên cường, họ “chưa cần thay” “chưa cần rửa” để lái trăm cây số, lái nhanh ra tiền tuyến. Kết hợp với giọng thơ đầy ngàng tang đã cho thấy thái độ bất chấp khó khăn, coi người hiểm nguy của người lính Trường Sơn.
Ngoài vẻ đẹp về sự kiên cường, dũng cảm, ở họ còn toát lên tình đồng chí đồng đội gắn bó. Sau những quãng đường đầy mệt nhọc và nguy hiểm, qua cửa kính vỡ rồi họ bắt tay nhau, trao cho nhau sức mạnh, niềm tin vào tương lai đất nước. Đối với họ, không dừng lại ở tình đồng chí đơn thuần mà đó còn là tình cảm gia đình: “Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy” . Để rồi sau bữa cơm quây quần, đầm ấm đó họ chia tay nhau, tiếp tục lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
Khổ thơ cuối cùng hình ảnh những chiếc xe không kính xuất hiện lại một lần nữa, xe không kính, không đèn, không mui, vô cùng thiếu thốn, đã bị biến dạng vì bom đạn kẻ thù. Nhưng đó không phải là điều mà Phạm Tiến Duật muốn hướng đến, đối lập với cái không ấy là một cái có vô cùng cao cả, thiêng liêng:
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Trái tim là hình ảnh hoán dụ đặc sắc, biểu tượng cho những người lính lái xe. Chỉ cần trong những chiếc xe đó có trái tim nhiệt huyết, tinh thần quả cảm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thì những chiếc xe đó vẫn ngày đêm băng đèo vượt suối, vượt qua mọi hiểm nguy, tiến về phía trước. Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy những chiếc xe chứ không thể phá hủy lòng nhiệt thành yêu nước của những chiến sĩ cách mạng.
Với ngôn từ giản dị, đậm chất khẩu ngữ cùng giọng thơ ngang tàng, hóm hỉnh, Phạm Tiến Duật đã đem đến cho người đọc chân dung đẹp đẽ của người lính. Họ vừa có cái hóm hỉnh của tuổi trẻ vừa có sự kiên cường, anh dũng, quả cảm. Vẻ đẹp của những người lính cũng như một bài học nhắc nhở cho chúng ta về ý thức trách nhiệm đối với đất nước.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 12
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng thời với Xuân Quỳnh, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Trà…Với giọng thơ sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc, thơ Phạm Tiến Duật chủ yếu tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính và các cô gái thanh niên xung phong. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một thi phẩm hay, rất tiêu biểu cho đặc điểm thơ và phong cách nghệ thuật đó của nhà thơ. Tác phẩm nằm trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1969, sau được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”.
Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh những chiếc xe không kính và những người lính lái xe ở chiến trường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ. Qua đó, nhà thơ phản ánh hiện thực khốc liệt của chiến tranh và tinh thần lạc quan, dũng cảm, tư thế hiên ngang, bất khuất, ý chiến chiến đấu ngoan cường của những người lính trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đầu tiên, điểm gây ấn tượng khác lạ và độc đáo ban đầu nơi người đọc qua tác phẩm là cách đặt nhan đề của Phạm Tiến Duật: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề khá dài, có vẻ như có chỗ thừa nhưng chính cái điểm ấy mà tạo nên cái độc lạ, thu hút sự chú ý của bạn đọc. Tác giả đã thêm vào nhan đề tác phẩm hai chữ “bài thơ”, điều đó cho thấy được chất thơ trong bài thơ, đồng thời cho thấy được cái nhìn lãng mạn của tác giả trước hiện thực khốc liệt của chiến tranh về những chiếc xe không kính do bom rơi, đạn lạc. Và với cách đặt nhan đề bài thơ như vậy, Phạm Tiến Duật cũng muốn nhấn mạnh đến những chiếc xe không kính trong khói lửa chiến tranh chỉ có ở chiến trường miền Nam thời kháng chiến chống Mĩ có rất nhiều, rất đông trở thành cả một “tiểu đội xe không kính”. Từ đó, nhà thơ làm nổi bật lên sự tàn khốc của chiến tranh và tinh thần hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi và trẻ trung của người lính khi lái những chiếc xe không kính bon bon ra chiến trường. Cho nên, ngay nhan đề thơ đã gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc thái thẩm mĩ riêng cho toàn bộ bài thơ: hóm hình, tươi vui, tinh nghịch, rất lính tráng.
Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về hình ảnh của những chiếc xe không kính vẫn băng băng tiến ra chiến trường. Tác giả chỉ ra nguyên nhân của những chiếc xe không có kính bằng một câu thơ văn xuôi rất tự nhiên, rất chân thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Thực ra, trước Phạm Tiến Duật đã có rất nhiều phương tiện giao thông đã được các nghệ sĩ đưa vào trong thơ của mình. Đó là hình ảnh của một con tàu tiến lên Tây Bắc trong bài “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên hay đó là con thuyền tiến ra khơi đánh bắt cá của những người ngư dân miền chài lưới trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận… Nhưng tất cả những xe cộ, tàu thuyền ấy khi đi vào thơ đều được lãng mạn hóa, mang một ý nghĩa biểu tượng nào đó. Còn những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật lại xuất phát từ hình ảnh có thực, thật đến trần trụi, “sống sít”. Điệp từ “không” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ kết hợp với động từ mạnh “giật” , “rung” vừa có ý nghĩa giải thích nguyên nhân xe không có kính, lại vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự dữ dội, tàn phá của chiến tranh. Không dừng lại ở đó, trong chiến tranh bom rơi đạn lạc, những chiếc xe không chỉ bị vỡ kính mà còn bị biến dạng trở nên hết sức trần trụi khủng khiếp:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Điệp từ “không có…” kết hợp với cách liệt kê hình ảnh các bộ phận thiếu thốn của xe “kính, mui, đèn, thùng xe” đã cho thấy cái nhìn rất chân thực về chiến tranh. Đó là sự hủy diệt vô cùng tàn khốc của bom rơi, đạn lạc nơi chiến trường xa xôi.
Chủ nhân của những chiếc xe không kính ấy là những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Phạm Tiến Duật đã dùng thủ pháp “đòn bẩy”, những chiếc xe không kính càng trần trụi, khốc liệt bao nhiêu thì phẩm chất của những người lính lái xe lại càng nổi bật lên bấy nhiêu. Qua đó tác giả muốn cho người đọc thấy được: lòng quả cảm, can trường, bất chấp mọi hiểm nguy, thiếu thốn của người lính lái xe nơi chiến trường.
Mặc dù những chiếc xe bị hủy hoại, tàn phá nhưng người lính vẫn rất hiên ngang, ngạo nghễ vững tay lái cho xe lăn bánh ra chiến trường:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Các câu thơ được viết lên bằng sự trải nghiệm của người trong cuộc nên vô cùng chân thực. Không có kính nên các anh chiến sĩ phải đối diện với biết bao nhiêu là sự nguy hiểm, khó khăn. Nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là sao trời, cánh chim “như sa, như ùa vào mặt, vào người, vào buồng lái của người lính lái xe. Các động từ mạnh “chạy thẳng, đột ngột, như sa, như ùa” đã cho thấy những cảm giác đầy căng thẳng, thách thức và hiểm nguy mà người lính phải đối diện. Tuy nhiên, đứng trước hoàn cảnh ấy, người lính không hề run sợ, hoảng hốt, né tránh mà trái lại rất đàng hoàng, hiên ngang, thoải mái: “Ung dung buồng lái ta ngồi / Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nghệ thuật đảo ngữ đẩy động từ “ung dung” lên trước đã cho thấy tư thế rất tự tin, bình thản và có phần ngang tàng của người lính. Điệp từ “nhìn”, “thấy” được lặp đi lặp lại cho thấy tất cả khung cảnh thiên nhiên như bỗng chốc bé lại, thu vào đôi mắt của người lính. Điều đó không chỉ cho thấy sự tập trung cao độ của một tinh thần trách nhiệm lớn lao mà còn cho thấy được tâm hồn lãng mạn, hiên ngang, mở lòng đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên của người lính qua ô cửa kính vỡ.
Trên dọc đường lái xe ra tiền tuyến, người lính còn chịu rất nhiều những khó khăn từ ngoại cảnh như gió, mưa, bụi:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già”
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn xối như ngoài trời”
Nhưng với tinh thần quả cảm, mạnh mẽ, bất chấp, người lính đã vượt qua tất cả:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Điệp ngữ “Không có kính, ừ thì…”; “chưa cần…” là lối nói mang đậm tính khẩu khí ngang tàng. Với cách nói nôm na, thông thường mà cứng cỏi, mạnh mẽ họ đã biến những khó khăn thành những điều thú vị. Người đọc như nghe thấy tiếng cười rũ sạch mọi gian khổ của người lính. Những chi tiết hình ảnh: “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha” hay “lái trăm cây nữa… khô mau thôi” đã cho thấy tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ của họ. Cảm giác như những khó khăn ấy cũng không thể nào dập tắt đi chất trẻ trung, tinh thần lạc quan và dũng cảm của người lính.
Người lính lái xe không chỉ hiện lên là những chàng dũng sĩ, hiên ngang, bất khuất, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm mà họ còn là những người chiến sĩ trẻ tuổi, trẻ lòng chan chứa tình đồng chí, đồng đội. Có thể nói, khó khăn, thử thách không chỉ tôi luyện cho người lính thêm bản lĩnh, thêm ý chí, nghị lực kiên cường mà còn giúp cho tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của họ thêm gắn bó, keo sơn:
Những chiếc xe từ trong bom rời
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ đi rồi.
Trên dọc đường từ hậu phương ra tiền tuyến có biết bao nhiêu những chiếc xe không kính ào ào ra trận. Họ gặp gỡ nhau và chào hỏi nhau bằng cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ. Cái cầm tay, nắm tay là một hành động đẹp, chứa chan tình cảm đồng chí đồng đội. Họ truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, động viên và cảm thông với nhau lúc hiểm nguy khó khăn, vất vả. Họ coi nhau như anh em ruột già máu mủ trong gia đình:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
Ta bắt gặp cách định nghĩa rất riêng của PTD về gia đình – về mối quan hệ thiết thân của những người lính trong chiến tranh, đó là: chung bát đũa, chung bếp lửa, chung hoàn cảnh khó khăn, chung con đường chiến đấu… Tất cả những điều ấy đã khiến những con người vốn xa lạ nhưng lại hóa quen nhau, thân thiết gắn bó keo sơn, đoàn kết cùng nhau vì lí tưởng cách mạng cao đẹp. Chính tình cảm đồng chí, đồng đội đã tiếp sức cho những người lính tiến lên phía trước: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” có ý nghĩa nhấn mạnh đến những đoàn xe không kính không ngừng tiến lên phía trước. Hình ảnh “trời xanh thêm” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn lạc quan, yêu đời, chan chứa niềm hi vọng của người lính vào tương lai phía trước của cuộc sống, của cách mạng.
Những câu thơ được viết ra mang đậm khẩu khí ngang tàn sôi nổi của những người lính kháng Mĩ. Họ hăm hở nhập ngũ lên đường với một mục tiêu cao cả tiêu diệt giặc, bảo vệ quê hương. Mọi khó khăn, gian nan, mọi hiểm nguy, chông gai, những người lính đã chia sẻ, động viên giúp đỡ lẫn nhau cùng vượt qua thử thách. Người đọc như cảm nhận thấy mọi khó khăn ấy đều trở nên nhẹ tựa lông hồng trước tiếng cười lạc quan của anh bộ đội cụ Hồ.
Cuối cùng, động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của kẻ thù ở người chiến sĩ đó chính là ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Bom, đạn có thể làm chiếc xe trở nên trần trụi, tàn tạ nhưng không thể nào đè bẹp được ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” vừa là hình ảnh hoán dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh, lòng dũng cảm, niềm lạc quan và tình thần yêu nước mạnh mẽ của người lính. Chính “trái tim” của họ là một động cơ hoàn hảo, có thể thay thế cho toàn bộ những cái “không có” bên trên của những chiếc xe hư hỏng, trần trụi. Tất cả vì một mục tiêu cao cả mà người lính lái xe đã xác định cho mình “vì miền Nam” ruột thịt. Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ là một bức tượng đài rực rỡ và chói sáng, một biểu tượng cao đẹp cho một thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng Mĩ cứu nước với tinh thần:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Điều đó cho thấy tinh thần yêu nước sâu sắc và sự ý thức trách nhiệm công dân cao độ của những người lính khi tổ quốc lâm nguy.
Tóm lại, với một giọng thơ trẻ trung, tinh nghịch, ngạo nghễ, ngang tàng; kết hợp với ngôn ngữ thơ giản dị, sống động, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc điệu…Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công những chiếc xe không kính và làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ: dũng cảm hiên ngang, lạc quan yêu đời và giàu ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, sắt son. Dù chiến tranh đã lùi về quá khứ, lịch sử dân tộc đã bước sang trang mới: tự do – độc lập nhưng hình ảnh những chiếc xe bị bom đạn tàn phá cùng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn chống Mĩ vẫn mãi sống với thời gian và trong lòng dân tộc.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 13
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lên “trong sắc áo của anh bộ đội Trường Sơn” giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ.
Tiếng thơ Phạm Tiến Duật hình thành và lớn lên với những bài thơ “Trường Sơn đông–Trường Sơn tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong, Nhớ….” đã góp phần trẻ hoá thơ Việt Nam thời chống Mỹ. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được rút ra trong tập thơ “Vầng trăng–quầng lửa” của tác giả. Trong bài thơ tác giả đã xây dựng một hình tượng độc đáo những “chiếc xe không kính” chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận vì chiến trường miền Nam ruột thịt.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã giải thích vì sao tất cả xe trong tiểu đội đều “không có kính”, vì bom đạn giặc Mỹ làm “kính vỡ đi rồi”. Chỉ một chi tiết nhỏ “không có kính không phải vì xe không có kính– Bom giật, bom rung kính vỡ mất rồi” tác giả đã làm cho người đọc hiểu được sự ác liệt, tàn bạo của cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra. Những chiếc xe này đã làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Mỹ cứu nước.
Thế mà, những người lính trên những chiếc “xe không kính” vẫn “ung dung buồng lái ta ngồi / nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng!”
Thái độ ung dung và “cái nhìn” của anh lái xe như bất chấp, coi thường tất cả nguy hiểm ở phía trước mặc dù “bụi phun tóc trắng như người già”, cho dù “mưa tuôn mưa xối như ngoài trời” các anh vẫn “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hoặc tếu táo “phì phèo châm điếu thuốc” hay “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Hình ảnh trong các câu thơ trên đã làm nổi rõ cái hiên ngang, dũng cảm, bất chấp mọi nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe, để lái những chiếc xe không kính ra mặt trận với một niềm tin niềm vui của tuổi trẻ.
Khung kính đã bị vỡ, không có gì để chắn gió trời ùa vào, đập thẳng vào mắt. Thế mà, tác giả lại viết: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”.
“Xoa” là cử chỉ nhẹ nhàng vuốt ve âu yếm. Qua cách diễn đạt của câu thơ thì ở đây, gió không làm đau, làm rát mắt của người lái xe mà ngược lại gió còn vỗ về nhè nhẹ vào đôi mắt “đắng”. Và, con đường trước mặt – con đường ra trận trở nên gần sát hơn đang chạy ngược lại “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Vì không có kính chắn, nên người lái xe có cảm giác và ấn tượng “Con đường chạy thẳng vào tim”. Con đường thực trước mặt đó cũng chính là con đường được nhà thơ nâng lên thành con đường lý tưởng, con đường cách mạng, con đường ở trong trái tim của người chiến sĩ. Chính là con đường đó đã giúp cho các chiến sĩ lái xe thêm sức mạnh, niềm tin, bất chấp bom đạn của kẻ thù, tiến lên phía trước: “Thấy sao trời và đột ngột cánh chim– Như sa như ùa vào buồng lái”. Người lái xe vẫn vui với “sao trời” và “cánh chim”. Sao trời và cánh chim ngày đêm như bầu bạn với người lính lái xe. Ngày cũng như đêm, thiên nhiên, đất trời luôn sát cánh với người chiến sĩ lái xe trên suốt chặng đường dài ra trận. Với nghệ thuật nhân hoá tài tình, nhà thơ đã biến những khó khăn trở ngại khi lái những chiếc xe không kính trở thành gần gũi gắn bó thân thương hơn. Giọng điệu thơ có khi thật ngang, tự nhiên, bất chấp gian khổ được thể hiện rõ trong cấu trúc được lặp lại “Ừ thì…”, “Chưa cần rửa”, “Chưa cần thay”, “Lái trăm cây số nữa…”. Dường như gian khổ nguy hiểm, ác liệt của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại, những người lính lái xe xem như là một nhịp để rèn thử thách sức mạnh và ý chí của mình “chí làm trai –tuổi trẻ người lính”.
Những người lái xe còn là những chàng trai trẻ, sôi nổi, vui nhộn, lạc quan. Họ “nhìn nhau”, “bắt tay nhau”, và trên đường ra trận thì “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời– Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, và cứ thế “võng mắc chông chênh đường xe chạy”, trước mắt họ những chiếc xe lại tiến lên phía trước, là ta cứ đi, lại đi “trời xanh thêm” không có gì ngăn cản được đường ra mặt trận.
Cái gì đã làm nên sức mạnh ở họ để coi thường gian khổ bất chấp gian nan như vậy? Đó chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam, là tình yêu nước nồng nhiệt ở tuổi trẻ thời đánh Mỹ cứu nước.
Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng trơ trụi, trụi trần “Không có kính rồi xe không đèn– Không có mui xe, thùng xe có xước”. Nhưng điều kì lạ là những chiếc xe trụi trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Tác giả lại một lần nữa lí giải bất ngờ và rất chí lí: “chỉ cần trong xe có một trái tim”, trái tim người lính cách mạng – trái tim của lòng quả cảm.
Với lời thơ tự nhiên như lời nói bình thường, giọng điệu thơ gần gũi, vui tươi, dí dỏm, bài thơ đã nêu bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn: dũng cảm hiên ngang, với niềm vui sôi nổi, lạc quan yêu đời bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm để ra trận vì Miền Nam ruột thịt thân yêu. Họ luôn đối diện với khó khăn thử thách, mà vẫn cười đùa, tếu táo, hồn nhiên, tự tin. Đó là nét đặc sắc của bài thơ cũng như ngôn ngữ, giọng điệu riêng của thơ Phạm Tiến Duật.
Hôm nay đất nước đã hoà bình sau hơn 30 năm giải phóng Miền Nam. Con đường Trường Sơn đã đi vào lịch sử, đọc lại bài thơ này, chúng ta càng tự hào và khâm phục biết bao các chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn ngày trước cùng bộ đội Trường Sơn đã góp phần vào chiến thắng huy hoàng của dân tộc.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 14
Những năm tháng chống Mỹ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và những dấu ấn khó phai mờ. Hình ảnh những những cô gái thanh niên xung phong, anh bộ đội cụ Hồ là một trong những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất trong kháng chiến. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu cho nét tinh nghịch cũng như tinh thần bất khuất, hiên ngang hào hùng của người chiến sĩ.
Với phong cách thơ tự do phóng khoáng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Đây cũng là bài thơ nằm trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970, Mở đầu bài thơ là một hình ảnh hết sức cụ thể, chân thực và độc đáo:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá đã khiến cho người đọc hình dung được bức tranh ác liệt, tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì “bom giật bom rung” cho nên “kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh với những mưa bom bão đạn đã tàn phá những chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, méo mó khiến cho chúng trở nên khác thường. Kì dị và độc đáo chính là những tính từ miêu tả chính xác cho những chiếc xe như vậy. Và có thể thấy rằng, lời giải thích rất thật thà, đơn giản nhưng lại chứa đựng một hiện thực sâu sắc.
Không có kính, tưởng chừng như thiếu thốn, tưởng chừng như vất vả nhưng ở đây những chiến sĩ lái xe lại không hề bi quan. Họ biến hình ảnh chiếc xe không kính không bình thường thành cái bình thường và biến cái thiếu thốn, khó khăn thành điều thú vị. Chính vì thế mà người đọc bắt gặp ở đây những nét tinh nghịch và lạc quan của người lính:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng
Hai từ “ung dung” đảo lên đầu câu cho thấy tư thế hiên ngang, có thể làm chủ được tay lái, làm chủ được con đường phía trước của người lính lái xe. Không những thế, đại từ “ta” vừa là chỉ người lái xe, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình. Với tâm thế này, thì phía trước là trời đất bao la, rộng lớn hay phía trước là những khó khăn vất vả thì người chiến sĩ vẫn tự tin tiến về phía trước, quân dân ta vẫn hùng mạnh bước tới.
Nhìn đất nhìn trời, người lính lái xe còn:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Thật là điều vô lý nhưng lại rất hợp lý, bởi lẽ, xe không có kính, mọi cảnh vật rất tự nhiên và chân thực. Ngay cả gió cũng có thể “nhìn thấy”, Còn sao trời, cánh chim thì “như sa, như ùa vào buồng lại”. Từ “nhìn” cũng không chỉ đơn thuần là thị giác nữa mà đó còn cảm nhận, tình cảm. “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Có lẽ trong lòng người chiến sỹ đang có một ý chí quyết tâm cao độ nên mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía trước, vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.
Nếu đoạn thơ trên nói đến những hình ảnh đẹp thì đoạn thơ tiếp theo sau lại nói về những vất vả, thiếu thốn của người lính lái xe. Song, dù ở bất kì hoàn cảnh nào thì các anh vẫn luôn nở nụ cười lạc quan, hóm hỉnh đầy chất lính:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Gió bụi của hiện thực và cũng là những gian khổ, thử thách mà các chiến sĩ lái xe phải vượt qua trên suốt chặng đường ra mặt trận. Qua chặng đường đầy gió bụi, mái tóc xanh của các chàng trai có sự thay đổi đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Thế nhưng các anh vẫn rất lạc quan, yêu đời và hóm hỉnh: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Trời nắng thì bụi. Trời mưa thì ướt sũng “như ngoài trời”. “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái đâu có kính che chắn gì nữa. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mặc dù vượt hết khó khăn này lại tới khó khăn kia nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới lạc quan: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần đời của anh lính bộ đội cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các anh chẳng hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng không làm chùn bước, ý chí của người lính cách mạng
Và trong cuộc chiến tranh đầy gian lao, thử thách ấy, tình cảm đồng chí, đồng đội lại càng trở nên gắn bó và gần gũi với nhau hơn:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những chặng đường mà mình đã đi qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đã cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng chính là tinh thần của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian lao để tiến bước đi đến thành công.
Những tình cảm ấy đã làm thành sức mạnh, giúp cho những người lính trở nên mạnh mẽ và lạc quan hơn. Chiến tranh vì thế cũng bớt thảm khốc, bớt ảm đạm hơn.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Một lần, sự tàn khốc của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nhắc đến thông qua những chi tiết như xe “không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước”. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc đến máy thì ý chí và sự nỗ lực vì miền Nam vẫn không ngừng nghỉ. Hình ảnh “trái tim” chính là một hình ảnh đẹp. Nó tượng trưng cho lý tưởng chiến thắng, thống nhất nước nhà. Những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ nhằm giúp sức cho miền Nam toàn thắng.
Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, hùng dũng và đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Và cái kết tinh đẹp nhất trong bài thơ ấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 15
Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là tác phẩm được giải nhất trong cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1969, cùng với các bài thơ Lửa đèn, Gửi em cô gái xung phong, Nhớ.
Thơ Phạm Tiến Duật đem lại một giọng điệu tinh nghịch mà sâu lắng, vừa trẻ trung vừa dân dã. Ngay ở đầu đề bài thơ đã có cái gì khác thường ngộ nghĩnh: ” … Tiểu đội xe không kính: là một cái tên đặt có tính chất bông đùa rất lính tráng. Nhan đề một bài thơ không nhất thiết cứ phải thêm cụm từ “Bài thơ về …” người ta mới biết là thơ. Việc thêm cụm từ đó có tác dụng khẳng định một chất thơ mới mà trước đó người ta có thể chưa nghĩ là thơ, cũng có thể chỉ là tác dụng nhấn mạnh mà thôi.
Câu mở đầu bài thơ là lời giải thích của người lính về “xe không kính” ngộ nghĩnh, bởi vì chẳng có ai sản xuất xe mà không có kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Xe không kính – biểu tượng thách thức của sự tàn phá, hủy diệt. Nhưng không sự tàn bạo nào lay chuyển được tinh thần các chiến sĩ lái xe:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Tư thế của họ mới đàng hoàng làm sao! Con mặt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai chữ “nhìn thẳng” – Nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh.
Nhưng các chàng trai lái xe là những con người rất trẻ và yêu đời. Không có kính chắn gió thì thấy gió thổi “vào xoa mắt đắng”, giữa người lái và cảnh vật dường như không còn gì ngăn cách, họ như cảm thấy trực tiếp sự tiếp xúc với ngoại giới:
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Đó là phát hiện khi xe chạy nhanh, con đường như chạy ngược trở lại. “Chạy thẳng vào tim” là một khái quát sâu sắc, bởi đó là con đường của trái tim. Nhưng khi nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim là xe đi trên đường bằng. Khi xe lên dốc, hoặc khi trời tối tối thì trước mắt là sao trời. Khi đường cua đột ngột trên dốc thì cũng đột ngột thấy cánh chum “Như sa như ùa vào buồng lái”. Chỉ có điều nhìn thấy mà gợi ra vao địa thế con đường cheo leo, hiểm nguy và cũng đầy thú vị.
Hai khổ thơ tiếp theo nói đến tính cách hiên ngang, phớt đời của họ. Lời thơ không văn vẻ mà gần gũi với tiếng nói rất bỗ bã và đầy chất lính tráng, ngang tang, rất đáng yêu:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Tình cảm của người chiến sĩ trong chiếc xe không kính được miêu tả chân thực, bụi phun tóc trắng, mặt lấm lem, mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Nhưng người chiến sĩ chấp nhận thử thách như một tất yếu: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”. Với tinh thần chấp nhận thử thách, họ hết sức bình thản: “Chưa cần rửa”, “chưa cần thay”. Cái cách “phì phèo châm điếu thuốc” và “nhìn nhau cười ha ha” thì sự bình thản đã đạt tới mức vô tư lự một cách thật trẻ trung! Cái thái độ phớt tỉnh: ” … lái trăm cây số nữa. Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi” cũng rất trẻ trung. Quả là tiếng thơ, lời thơ của một thế hệ trẻ tuổi. Khi viết bài này, nhà thơ chưa đến ba mươi ấy thực sự khơi một nguồn cảm xúc trẻ trung, tinh nghịch cho thơ cách mạng, kháng chiến. Hai khổ thơ thứ năm và thứ sáu nói về sự hình thành tiểu đội xe không kính:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi lên cái ý những chiếc xe gan góc, những chiếc xe đã qua thử thách. Những người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè, và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! Họ có thể chào nhau, bắt tay nhau mà không có gì phải hổ thẹn. Câu thơ “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới” cũng đầy ý tứ sâu xa; những người gặp trên đường đi tới giải phóng miền Nam mới thật sự là bạn bè. Và mặt khác, con đường đi tới là đường chính nghĩa, càng đi càng gặp nhiều bạn.
Đoàn xe không kính càng ngày càng đi xa, càng đi sâu vào chiến trường. Khổ thứ sáu nói tới sinh hoạt trên đường của họ.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Một tư thế tự tin, đàng hoàng:
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Những người đã được thử thách, đầy lòng dũng cảm khi gặp nhau trong bữa ăn là trở thành “gia đình” ruột thịt. Họ không ngừng được bổ sung vào cái gia đình ấy. “Mắc võng chông chênh” ngủ trên xe để có thể người nghỉ, người lái xe chạy liên tục. Hai chữ “lại đi. Lại đi” được nhắc lại đã biểu hiện đoàn xe không bao giờ ngừng tiến tới. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. Trong xanh là trời đẹp, bầu trời bình yên, không gian cao xa, viễn cảnh rộng lớn. Mạch thơ nối tiếp khổ thơ đầu: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Khổ thơ thứ bảy, kết bài nêu lên hình ảnh về những thử thách ngày càng nhiều, càng ác kiệt. Chỉ tiếc chữ “xước” hơi nhẹ quá:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Những chiếc xe từ trong bom rơi vẫn đi qua những trận mưa bom, và chiếc xe ngày càng hư hại, biến dạng. Nhưng:
Xe vẫn chạy về miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Câu kết khẳng định quyết tâm giải phóng miền Nam không lay chuyển, tình yêu miền Nam là sức mạnh vô song. Sự đối lập tình trạng hư hỏng của xe và hoạt động không ngừng của xe đã nói lên tinh thần bất khuất của con người. Xe chạy bằng trái tim, bằng xương máu của những người chiến sĩ anh hùng. Câu kết bài thơ đã biểu dương cao độ sức mạnh tinh thần của con người. Xe có thể thiếu nhiều thứ, nhưng không thể thiếu được trái tim hướng về miền Nam.
Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên con đường xe chạy liên tục. Thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không thay đổi. Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới trẻ trung, tinh nghịch ngang tang mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của đoàn quân và toàn dân ta, khẳng định con người mạnh hơn sắt thép.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 16
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong, thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
Câu thơ tự nhiên như một lời nói thường ngày, mang đậm chất văn xuôi:
Không có kính không phải vì xe không có kính.
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.
Chiến tranh khốc liệt của giặc Mĩ, “bom giật”, “bom rung” đã gây ra bao tổn hại cho những chiếc xe ấy. Và nó còn gợi lên cảm giác rằng tính mạng của người lính cũng luôn bị đe doạ.
Một sự đối lập khá độc đáo được tác giả sử dụng trong đoạn thơ này: đi trong mưa bom bão đạn mà người lính vẫn luôn ung dung, bình thản. Người lính thật khẳng khái, bất chấp bom đạn:
Ung dung buồng lái ta ngồi!
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Đây là một cái nhìn tự do như coi thường tất cả những hiểm nguy và vất vả trong cuộc chiến. Đây là cái nhìn của những con người bản lĩnh. Cái nhìn của người lính trong tiểu đội xe không kính là cái nhìn ung dung, bình thản, tập trung cao độ. Mặc dù xe không kính như thế nhưng người lính vẫn bình tĩnh, tự tin để ra tiền tuyến, vẫn có cái nhìn ngạo mạn trước hiểm nguy. Người lái xe không kính thật bản lĩnh. Lòng căm thù giặc đã giúp họ vững vàng tay lái để đưa tiểu đội ra tiền tuyến. Tình yêu Tổ quốc đã làm người chiến sĩ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ của cuộc chiến tranh. Ý chí chiến đấu đã làm người lính lái xe không cảm thấy vất vả khi xe không có kính. Xe không kính đã làm người chiến sĩ gần gũi với thiên nhiên, hoà nhập với thiên nhiên trên đường ra trận:
Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim.
Vì không có kính chắn gió nên người lính nhìn thấy rõ hơn. “Con đường chạy thẳng vào tim” – con đường vừa mang giá trị hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng thật độc đáo: con đường đi đã được nâng lên thành con đường cách mạng, con đường ở trong tim của mỗi người chiến sĩ, con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Không có kính là một mất mát lớn nhưng đã tạo điều kiện thuận lợi cho người lính có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên. Không chỉ là mặt đất mà cả bầu trời đầy sao, cánh chim như ùa vào buồng lái:
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt, chính tình yêu thiên nhiên và cả vẻ đẹp lãng mạn trong tâm hồn đã giúp người chiến sĩ vượt qua những khó khăn. Khổ sở là như thế, nhưng đối với người lính thì có hề chi, họ bất chấp mọi hiểm nguy:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Hai tiếng “ừ thì” chắc nịch nhưng nhẹ nhàng, không hề phàn nàn, kêu ca. Dường như những gian khổ, nguy hiểm của chiến tranh cũng không ảnh hưởng đến tinh thần đầy lạc quan của người lính.
Vì xe không có kính nên nắng thì có bụi mà mưa thì xối xả. Ngồi trong buồng lái nhưng chẳng khác nào là ở ngoài trời. Hai chữ “ừ thì” được lặp lại đã khẳng định được thái độ sẵn sàng bất chấp khó khăn, cũng như có bụi thì chưa cần rửa, khi có mưa, áo có ướt cũng chưa cần thay:
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam tạo ra sức mạnh vô biên thúc giục người lính chạy thêm “trăm cây số nữa”. Một qui luật tự nhiên không gì thay thế được: mưa rồi sẽ tạnh, gió sẽ lùa vào, áo sẽ “khô mau thôi”. Những người lính hiện lên trong câu thơ thật hồn nhiên, vui vẻ, lạc quan.
Chính tình yêu Tổ quốc, tinh thần giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đã tạo ra một sức mạnh lớn lao để người lính vượt qua mọi gian khổ hiểm nguy trong cuộc chiến tranh khốc liệt.
Chiếc xe không kính ấy đã chở tiểu đội ra chiến trường miền Nam đánh Mỹ, thống nhất nước nhà. Tuy tác giả không nói ra ngồi trên chiếc xe bị quân thù tàn phá đi ra từ chốn bom rơi ấy là những người lính như thế nào nhưng người đọc đều hình dung được rằng đó là những người dạn dày và gan góc trong bom đạn:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Một sự trẻ trung, yêu đời lại được thể hiện trong một chi tiết ngộ nghĩnh. Họ lại gặp nhau trên đường đi tới và đã ‘‘bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Tình bạn, tình đồng chí không bị ngăn cách bởi cái không thuận lợi của hoàn cảnh mà trái lại nó càng khăng khít hơn, tiếp thêm sức mạnh cho nhau để hoàn thành nhiệm vụ.
Tình đồng chí, đồng đội giữa những người, lính Trường Sơn đã được thể hiện một cách sâu sắc, họ là những người cùng chí hướng:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Giữa đất trời tự do phóng khoáng, họ cùng nhau dựng bếp Hoàng Cầm, cùng nhau xây dựng lí tưởng, cùng nhau nhóm ngọn lửa cách mạng. Không cần lạ quen, chỉ cần “chung bát đũa” là những người lính có thể họp lại thành một gia đình, Vì thế mặc dù xa nhà, xa quê hương đi chiến đấu nhưng người lính không hề cảm thấy cô đơn. Họ mắc võng để nghỉ ngơi, chuyện trò cùng nhau trong những giây phút thanh thản ngắn ngủi rồi lại đi. Điệp ngữ “lại đi” nối tiếp nhau như cuộc đời của những người lính cứ đi về phía trước. Chính nhờ những chuyến đi ấy mà họ lại có cảm giác “trời xanh thêm”. Nó không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn mang ý nghĩa tượng trưng: đó không chỉ là màu xanh của bầu trời mà còn là màu xanh của hoà bình, của hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Sự đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong chiếc xe đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp của anh bộ đội cụ Hồ. Các anh đã vượt qua tất cả:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Những chiếc xe còn thiếu nhiều thứ mà đáng lẽ ra nó cần phải có. Nhưng đó chỉ là những thứ vật chất, nếu thiếu thì các anh vẫn khắc phục được. Các anh đã nhấn mạnh thêm một cái “có” thật cần, đó là lí tưởng cộng sản, lí tưởng yêu nước căm thù giặc:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Đây là “trái tim” của một con người đầy nhiệt huyết chiến đấu vì miền Nam yêu thương, và vì thế xe vẫn băng ra tiền tuyến, mặc dù: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
Với những câu thơ gần gũi như những lời nói thường ngày đậm chất văn xuôi, Phạm Tiến Duật đã xây dựng được một hình tượng độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng băng trên con đường ra trận. Và qua hình ảnh những chiếc xe, tác giả đã làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính gan góc, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm ở Trường Sơn thời chống Mĩ.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 17
Phạm Tiến Duật từ lâu đã được biết đến là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Là một người lính chính vì thế mà nhà thơ có được phong cách trẻ sôi nổi, hồn nhiên mà sâu sắc ở trong thơ. Viết về hình ảnh những người lính trong sáng tác của ông không thể không kể đến là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Có lẽ rằng trên chiến trường thì hình ảnh của những chiếc xe không có kính – hình ảnh thơ độc đáo đã in sâu vào trong trí nhớ của Phạm Tiến Duật. Với hình ảnh của chiếc xe không kính như đã khiến cho nhan đề bài thơ trở nên hết sức đặc biệt – ta như nhận thấy được tác giả như cũng sắp viết ra một câu chuyện dài và vô cùng đặc sắc vậy. Quả thực cũng chính hình ảnh đó như đã làm nổi bật lên được hình tượng của những người lính trẻ, họ là những người lính lái xe đã anh dũng, bỏ cả tuổi thanh xuân của mình để nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Thật ấn tượng biết bao nhiêu ngay từ ngôn từ, phong cách, nội dung cho đến cả nhịp điệu thơ đều rất tự nhiên và vô cùng mộc mạc, có sức gợi tả, gợi cầm. Câu thơ trên cũng đã làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng và mang được sự tếu táo, đó là hình ảnh của những chiếc xe không kính. Mặt khác, ta như nhận thấy được cả lời giải thích của tác giả về những chiếc xe vô cùng đặc biệt ấy cũng được Phạm Tiến Duật miêu tả cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe này cũng đã bị phá huỷ bởi chính hình ảnh bom giật, bom rung. Không chỉ vậy ta nhận thấy được có các những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ. Thêm vào đó thì hai câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, cũng chẳng phải hình ảnh tráng lệ, không có hình ảnh tượng trưng, giọng thơ được sử dụng có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu chứa được biết bao nhiêu ấn tượng trong bài thơ. Tiếp đến là khổ cuối cùng của bài cũng đã lại khiến cho Phạm Tiến Duật tái hiện lên hình ảnh chiếc xe như một dụ ý nghệ thuật độc đáo.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Có thể nói rằng cũng chính với những chiếc xe ấy bị biến dạng, cũng đã bị phá huỷ gần như là toàn bộ. Thế rồi bom đạn, chiến tranh mới khốc liệt và nguy hiểm biết bao nhiêu. Ngay cả sắt thép còn như thế nữa thì huống chi con người bằng da bằng thịt.Tuy khó khăn và thiếu thốn, luôn đối mặt với sự hiểm nguy thì những cỗ xe kia cũng cứ vẫn hiện lên một cách rất độc đáo và cũng lại rất có hồn, rất ngang tàng. Cũng không quá chút nào khi nói rằng hình ảnh chiếc xe không kính như đã trở thành biểu tượng trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Thông qua hình ảnh xe không kính thì còn nổi bật được hình ảnh của người chiến sĩ lái xe cũng thật hiên ngang, mưu trí và dũng cảm.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Sử dụng nhịp thơ ngắn, nhanh và phần điệp từ nhìn lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động cho câu thơ. Tiếp đó ta lại nhận thấy được đó cũng chính là một lời kể về những sự vật được nhìn thấy trên đường thông qua đoạn thơ sau:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Hình ảnh của những người lính lái xe vẫn ung dung, vẫn cứ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Thêm vào đó ta nhận thấy được nhịp thơ mà nhịp nhàng, sôi nổi như lời ca, tiếng hát như lại càng khiến không khí bài thơ thật vui tươi, sôi động.
Có thể nói khi mà chiếc xe đã bị phá huỷ, nát tan đến như vậy thì biết bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ vì xe không có kính mà thành:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Thật bất ngờ khi không có kính thì tác giả lại có bụi rồi có mưa tuôn, mưa xối coi những khó khăn này trở thành động lực để luôn lạc quan yêu đời.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
….Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Sử dụng giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Ta như nhận thấy được hình ảnh của những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không chỉ dừng lại ở đó thơi đâu, những người họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn và có tình cảm thật khăng khít. Và cũng không có kính nên họ mới có thể
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Hình ảnh gia đình – hình ảnh gợi thương gợi nhớ khiến cho con người, cho những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu nóng, đó mà một dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam để có thể giải phóng đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Hình ảnh chiếc xe như đã bị chiến tranh làm phá hủy đến không có kính, bao nhiêu khó khăn đó như cũng qua hết bởi chỉ cần trong xe có một trái tim là đủ. Tình yêu tổ quốc đã thể hiện vô cùng rõ ràng và khiến cho chúng ta nhận thấy được tình yêu tổ quốc, yêu đồng bào, yêu gia đình đã biến thành sức mạnh để có thể giúp người lính có thêm ý chí để có thể vượt lên trên tất cả vì tự do của đất nước.
Phạm Tiến Duật đã sáng tác ra bài thơ về tiểu đội xe không kính với lời thơ, chất thơ trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm đã thế lại có phần tếu táo đã làm cho bài thơ trở nên thật đặc biệt, rất có hồn nữa. Bài thơ như đã để lại trong tâm trí người đọc một thế hệ trẻ anh hùng trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước gian khổ và ác liệt.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 18
Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết chớ lui.
Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ – những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho thời kì chống Mĩ cứu nước là Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ Phạm Tiến Duật có một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, tình đồng chí đồng đội gắn bó tình yêu đất nước thiết tha…
Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đưa vào thơ thì đều được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận. Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe không kính” lại là một thực tế, là hình ảnh thường gặp trên tuyến đường Trường Sơn.
Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần không bình thường ấy:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.”
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Bằng những câu thơ rất thực, đậm chất văn xuôi, điệp ngữ “không”, cùng với động từ mạnh “giật”, “rung”. Tác giả đã lí giải nguyên nhân không có kính của những chiếc xe. Bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe trở nên biến dạng “không có kính”, “không có đèn”, “không có mui xe”, “thùng xe có xước”. Từ đó, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.
Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.
Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.
Vẻ đẹp của người lính lái xe trước hết thể hiện ở tư thế hiên ngang, ung dung, đường hoàng, tự tin và tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai đã nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Từ chiếc xe không kính, người chiến sĩ đã quan sát cảnh vật bên ngoài. Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”, “nhìn trời”, vừa trực diện, tập trung cao độ “nhìn thẳng”. Các anh nhìn vào khó khăn, gian khổ, hi sinh mà không hề run sợ, né tránh – một bản lĩnh vững vàng. Mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao.
Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Sau tay lái của chiếc xe không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng ngại vật rơi rụng, quăng ném, va đạp vào trong buồng lái. Song, quan trọng hơn là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên rồi được tự do giao cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. Điều này được thể hiện ở nhịp thơ đều đặn, trôi chảy như xe lăn với việc vận dụng linh hoạt điệp ngữ “thấy” và phép liệt kê. Có rất nhiều cảm giác thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không có kính. Các hình ảnh “con đường”, “sao trời”, “cánh chim”… diễn tả rất cụ thể cảm giác của những người lính khi được lái những chiếc xe không kính. Khi xe chạy trên đường bằng, tốc độ xe chạy đi nhanh, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, chính vì thế, các anh mới có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim. Và cái cảm giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, được “thấy sao trời” và khi đi qua những đoạn đường cua dốc thì những cánh chim như đột ngột “ùa vào buồng lái”. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.
Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang tàn hóm hỉnh. Cấu trúc: “không có…”; “ừ thì…”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ “phì phèo”, “cười ha ha”, “mau khô thôi”… làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Cài tài của Phạm Tiến Duật trong đoạn thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt. Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo”, “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niềm vui sôi nổi, yêu đời. Thật đáng yêu và đáng tự hào biết bao!
Sâu sắc hơn,bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Những chiếc xe từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây họp thành tiểu đội. Hình ảnh những chiếc xe không kính, xấu xí, trần trụi xếp hàng tập trung thành tiểu đội. Một hình ảnh mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng gai góc. Những chiếc xe “họp” mặt chính là hình ảnh của những anh lính lái xe cùng quây quần bên nhau để trò chuyện, chia sẻ những chuyện vui buồn của đời lính. Chỉ cần nhìn thấy “bạn bè dọc đường đi tới” là niềm vui, hạnh phúc dâng trào trong tâm hồn họ. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái “bắt tay” thật đặc biệt “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Đây là cái bắt tay thân tình của những con người cùng chung chí hướng, cái bắt tay truyền lửa – ngọn lửa soi sáng những chặng đường khốc liệt được thắp lên từ triệu trái tim chiến sĩ tràn đầy nhiệt tình cách mạng. Những con người vốn “xa lạ”, gặp nhau nơi chiến trường, đồng điệu nhau ở tình yêu Tổ quốc và trở thành đồng đội, “đồng chí‘. Họ kề vai, sát cánh bên nhau không chỉ trong những giờ phút khốc liệt băng qua mưa bom bão đạn, đối mặt với kẻ thù, cận kề cái chết mà cả trong những phút giây ấm áp, thân tình. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.”
Gắn bó trong chiến đấu, họ càng gắn bó trong đời thường. Sau những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, những người lính lái xe đã xích lại thành gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu hóm mà thật chân tình sâu sắc. Đó là gia đình của những người lính cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu. Hình ảnh “bếp Hoàng Cầm”, “võng mắc chông chênh” là hiện thực của cuộc sống chiến trường được đưa vào thơ tự nhiên như hơi thở núi rừng. Hồn thơ cứ tự nó được khởi nguồn từ chính những hiện thực bình dị ấy. Nhưng nhịp điệu thơ lại được tạo nên bởi nhịp võng đưa, bởi nhịp bánh xe quay đểu. Từ láy “chông chênh” không chỉ mang lại vần điệu cho câu thơ mà còn có ý nghĩa gợi hình sâu sắc. Đó là hình ảnh thực của con đường xe chạy hay là những khó khăn trở ngại, những hiểm nguy mà người lính phải đối mặt trong chiến tranh? Nhưng khí phách, ý chí chiến đấu của những người lính ấy vẫn luôn vững vàng, kiên định. Ngọn lửa trái tim và tình đồng chí – tình cảm của những con người trong cùng “gia đình” đã nâng những bước chân lạc quan, phơi phới, ngân lên thành câu hát, băng qua “bom giật bom rung” để “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” lặp lại hai lần vừa thể hiện nhịp sống, chiến đấu của tiểu đội xe không kính vừa khẳng định tinh thần, ý chí cách mạng kiên định vững vàng không sức mạnh bạo tàn nào có thể ngăn nổi của những người lính. Dường như chính những bước chân ấy đã nhuộm lên màu xanh của bầu trời – màu xanh chứa chan hi vọng gợi lên tâm hồn lạc quan, sức trẻ, khát vọng và niềm tin chiến thắng của người lính Trường Sơn. Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).
Khổ thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chủ cần trong xe có một trái tim.”
Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có xước. Điệp ngữ “ không có” đi cùng với phép liệt kê “ kính , đèn , mui xe, thùng xe” càng khắc họa tô đậm rõ nét, chân thực sự tàn phá, hủy hoại khủng khiếp của chiến tranh. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính gặp chất chồng khó khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước.
Nhưng nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bào? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ gợi tả “vẫn” cho thấy ý chí, quyết tâm của người lính, không hề lung lay trước sự hiên ngang ấy. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim”. “Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng… Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mỹ bạo tàn. Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mỹ.
Giọng thơ ngang tàng, có cả chất nghịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả (những chàng trai lái xe trên những chiếc xe không kính). Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường ngày nhưng vẫn thú vị và giàu chất thơ. Việc kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động. Bài thơ không chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó còn phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép.
Qua bài thơ, tác giả đã xây dựng hình tượng người lính lái xe trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ là những con người anh hùng, dũng cảm, lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ, biết hi sinh bản thân mình vì nghĩa lớn, vì nhân dân, vì đất nước:
Cái vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng còn chờ đó tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
Người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trên tuyến đường Trường Sơn gian khổ, hào hùng.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 19
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới vẫy tương lai”
Đó là những câu thơ vô cùng tuyệt đẹp mà nhà thơ Tố Hữu đã viết ra để ca ngợi cả một thế hệ những chàng trai, cô gái thanh niên xung phong đã dũng cảm từ giã gia đình, từ bỏ giảng đường đại học để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Họ ra đi và dấn thân vào con đường Trường Sơn máu lửa, nơi bom đạn kẻ thù liên tiếp dội xuống, nơi sự sống và cái chết trở nên mong manh với một niềm tin niềm lạc quan phơi phới vào tương lai đất nước. Và viết về những người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy, ta không thể nhắc đến bài thơ “Bài thơ tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Bài thơ khắc họa thành công hình tượng những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Mĩ với một tư thế hiên ngang dũng cảm, coi thường mọi gian khổ khó khăn, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hình ảnh những chiếc xe không kính và thái độ ung dung của người chiến sĩ lái xe khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh những chiếc xe không kính với một cách nói rất tự nhiên, mộc mạc, vòng vèo pha chút lính. Lời thơ giản dị, tự nhiên, gần gũi như chính cuộc sống đời thường đi vào trong trang viết. Nhưng ẩn sau những lời thơ giản dị, mộc mạc ấy là một hiện thực chiến tranh vô cùng khốc liệt, là cảnh mặt đường bị cày nát, loang lổ những hố bom. Hình ảnh những tấm kính chắn gió xe bị vỡ vụn tan tành, vì “bom giật, bom rung” rú gầm dữ dội là chứng nhân của cuộc chiến đấu gian nguy và khốc liệt của người lính lái xe. Biết bao gian khổ hiểm nguy đang rình rập, đe doạ tính mạng con người. Vậy mà kỳ lạ thay khi nói về nó giọng điệu người lính trẻ rất thản nhiên, vô tư, nhẹ nhàng. Phải là một con người dũng cảm không sợ gian khổ, không sợ hi sinh mạng sống của bản thân mình mới có cách nói nhẹ tênh, tự nhiên như thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Từ láy “ung dung” gợi lên hình ảnh người lính đang ở trong một tư thế, dáng ngồi bình thản, tự do tự tại, ngang tàng, ngạo nghễ, không hề bận tâm lo lắng, sợ hãi. Điệp từ “nhìn” cho ta cảm giác người lính đang mở rộng tầm mắt của mình nhìn về phía bầu trời cao rộng. Đặc biệt, từ nhìn thẳng nhấn mạnh thái độ dứt khoát, tự tin của một con người sẵn sàng đối đầu với mọi khó khăn thử thách đang chờ đợi mình trên con đường phía trước.
Bởi không có kính cho nên thiên nhiên đất trời rộng mở trước mắt người lính. Những cản vật đối với việc lái xe an toàn giờ đây cứ chực sa, chực ùa vào buồng lái:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Ngồi trong khoang lái không có kính chắn gió, người lính có dịp nhìn thẳng vào thiên nhiên trước mắt mình và anh có cảm giác con đường trước mặt đang lao về phía mình. Những cơn gió ùa vào buồng lái như xoa dịu đôi mắt đắng vì bụi đường. Đặc biệt các anh cảm nhận cánh chim và những vì sao lung linh trên bầu trời như sa, như ùa vào buồng lái để bầu bạn, tâm tình trên vạn dặm trường chinh.
Cảnh vật lướt qua thật nhanh trong mắt người chiến sĩ. Qua cách cảm nhận hồn nhiên, vô tư ấy, ta hình dung chiếc xe đang lao đi với một tốc độ rất nhanh. Hình ảnh con đường chạy thẳng vào tim vừa là hình ảnh thực miêu tả tốc độ lao nhanh của chiếc xe đồng thời là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho con đường lý tưởng. Đó là con đường ra tiền tuyến, con đường chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc mà người lính tự nguyện dấn thân theo đuổi trong suốt cuộc đời mình.
Mặt khác hình ảnh thiên nhiên hiện lên trong bài thơ này với vẻ đẹp nên thơ của một bầu trời cao lồng lộng với ánh trăng sao lung linh tỏa sáng giữa màn đêm, với một cánh chim trời lướt ngang mạnh mẽ cho thấy một nét đẹp trong tâm hồn người lính. Đó là những con người có tâm hồn lãng mạn, yêu đời. Mặc dù con đường hình ảnh đầy gian khổ nhưng người lính vẫn mở rộng lòng mình ra để đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên đất trời và tạo vật dù chỉ là trong khoảnh khắc.
Những gian khổ trên con đường hành quân và tinh thần chịu đựng gian khổ khẳng định bản lĩnh phi thường của người lính lái xe:
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Vì lái những chiếc xe không kính cho nên suốt con đường hành quân, người lính phải chịu biết bao gian khổ, nào mưa tuôn, mưa xối, nào bụi phun trắng như người già, rồi thì ướt áo, mặt mày lấm lem vì bụi đường. Biết bao gian khổ, bức bối, khó chịu, nhưng đã là lính thì phải.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc, nhìn nhau mặt cười ha ha. Chưa cần thay lái trăm cây số nữa, mưa ngừng gió lùa khô mau thôi là cách nói đầy lạc quan tin tưởng. Đã là lính thì phải biết coi thường gian khổ, dù mưa gió, bụi bẩn, quần áo ướt sũng thì cũng phải vượt qua. Lúc nào cũng phải vững vàng tay lái, tiếp tục đưa xe băng băng ra chiến trường tiếp viện. Đã là lính thì phải biết vượt qua mọi gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ.
Từ chi tiết này ta nhận ra một nét đẹp trong tâm hồn người lính đó là những con người có trách nhiệm cao độ. Con người biết coi thường gian khổ của bản thân. Đặc biệt là những người lính trẻ trung, sôi nổi, tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống. Họ luôn biết mỉm cười dù trong mọi hoàn cảnh khó khăn.
Cái tiếng cười ha ha, tếu táo, nghịch ngợm không chỉ thể hiện sự hồn nhiên, trẻ trung, sôi nổi của người lính, mà còn thể hiện bản lĩnh, tinh thần lạc quan của họ. Nó khiến ta liên tưởng đến miệng cười buốt giá của những anh vệ quốc quân trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Nụ cười ấy giúp con người quên đi mọi gian khổ, có thêm niềm tin sức mạnh vượt qua bom đạn và chông gai trên con đường phía trước. Chính trên quãng đường đầy hiểm nguy ấy, tình đồng chí đồng đội được củng cố, bồi đắp bằng sự cảm thông, tin tưởng sâu sắc:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Tình cảm đồng đội, đồng chí của người lính lái xe đêm không phải chỉ được hình thành ở nơi dầu sôi lửa bỏng, nơi chiến trường đạn bom ác liệt, hay trong lúc “súng bên súng, đầu sát bên đầu”, cùng chung vai sát cánh trong chiến đấu, mà còn là lúc dựng bếp giữa trời. Tình đồng đội được gắn kết khi ta cùng chung bát đũa, chung bữa cơm dã chiến trên rừng. Chiếc võng mắc chông chênh đường xe chạy, ta nằm cùng nhau kể lể chuyện tâm tình.
Chỉ vậy thôi trong những phút giây gặp gỡ vô cùng ngắn ngủi, tình cảm đồng đội, đồng chí vẫn được hình thành thiêng liêng gắn bó, sâu đậm, thân thiết, như những người ruột thịt trong gia đình. Vẫn đau lòng xót xa khi nghe tin một đồng đội ngã xuống, và sững sờ khi một ngày nào đó trên con đường ra trận, họ gặp lại bạn mình.
Họ trao nhau một cái bắt tay, một nụ cười, ánh mắt, lời nói và trao nhau biết bao tình yêu thương nồng nàn ấm áp. Để từ đó họ trao nhau niềm tin sức mạnh, động viên nhau vượt qua những khó khăn gian khổ trên con đường phía trước. Sau những giây phút ngắn ngủi đó, họ tiếp tục ra đi “lại đi lại đi trời xanh thêm”. Đi để nhìn thấy bầu trời trong xanh, không còn thấy khói súng, bom đạn của kẻ thù. Đi để đất nước được hoà bình thống nhất.
Một lần nữa, hình ảnh chiếc xe không kính lại hiện ra, đóng khép lại khúc ca ra trận hào hùng:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Điệp từ “không” lặp đi lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh một hiện thực chiến tranh tàn khốc, với hình ảnh một chiếc xe méo mó, biến hình biến dạng. Hiểm nguy rình rập trên từng bước đường xe chạy. Cái khốc liệt của chiến tranh hiển hiện ngay trên những vết đạn còn in dâu trên thân xe. Thế nhưng dù gian khổ, nguy hiểm, dù chiến tranh có tàn khốc thế nào đi chăng nữa, những người lính vẫn đinh ninh đưa xe tiến về phía trước, về miền Nam thân yêu.
Chính sức mạnh của tình yêu nước đã thôi thúc, khơi dậy nơi người lính lòng quả cảm, biến họ thành những anh hùng của thời đại. Những trái tim nhiệt tình yêu nước, những trái tim mang khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đang toả sáng sôi sục trong tâm hồn của người lính trẻ. Họ mong muốn góp sức, hiến máu xương mình cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, để đất nước được hoà bình thống nhất, nhà nhà đoàn tụ, cuộc sống con người ngày càng tốt đẹp hơn. Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước bởi trong xe luôn có một trái tim tràn trào khí phách.
Như một lời khẳng định đinh ninh, dứt khoát, thể hiện ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của cả thế hệ thanh niên Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ ngày đó. Chính nhờ có lòng yêu nước nồng nàn đó, những người lính của chúng ta đã góp sức mình làm nên những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Phạm Tiến Duật đã viết nên những lời thơ giản dị, tự nhiên, đậm chất khẩu ngữ như lời ăn, tiếng nói trong cuộc sống thường ngày. Hình ảnh thơ chân thật, giản dị như lấy ra từ chính hiện thực chiến đấu đã làm cho bài thơ nét đẹp riêng rất chân thành, mộc mạc và rất đỗi sâu sắc.
Hình ảnh người lính anh hùng, dũng cảm, lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ, biết hi sinh bản thân mình vì nghĩa lớn, vì nhân dân, vì đất nước là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca kháng chiến. Lý tưởng sống vì mọi người, tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” có vai trò cổ vũ người lính tiến lên phía trước. Thậm chí, dẫu có bị thương, họ vẫn “ung dung” xem thường nghịch cảnh:
“Cái vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng còn chờ đó tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.”
(Bài ca lái xe đêm – Tố Hữu)
Trước lời kêu gọi lên đường của tổ quốc, những chàng trai trẻ đã không ngần ngại bước đi. Nhà thơ Thanh Thảo trong bài thơ “Khúc bảy” đã có những lời phân trần chân thực, hết sức đáng yêu:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
Đáp lời sông núi, cả những cô gái trẻ như Nho, Phương Định (Những ngôi sao xa xôi – Lê minh Khuê) cũng đã dũng cảm rời bỏ quê hương yên bình, biết bao thân thuộc, mến yêu để đến nơi rừng núi, hòa vào cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược của dân tộc.
Đó là những con người “Sống hiên ngang bất khuất trên đời”. Họ đã dũng cảm “không tiếc đời mình” vì hạnh phúc cuối cùng của toàn dân tộc. Họ chính là linh hồn dân tộc, là sức mạnh của sông núi quê hương. Tố Hữu đã ví những con người trẻ tuổi ấy là những “Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”. Họ là con của nhân dân, bình dị, khiêm tốn, gần gũi nhưng vĩ đại – cái vĩ đại của một thế hệ anh hùng.
Anh bộ đội cụ Hồ chính là sự kết tinh cao độ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc suốt trong bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Hình ảnh người chiến sĩ mãi là hình ảnh đẹp nhất trong thơ, mãi là chân dung đẹp nhất của thời đại chúng ta
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài ca ca ngợi sức mạnh chiến đấu của người lính Việt Nam thời kháng Mĩ cứu nước. Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 20
Nhan đề Bài thơ về tiểu đội xe không kính khá dài, tưởng như có chỗ thừa. Nhưng vì thế mà rất độc đáo, thu hút sự chú ý. Nhan đề ấy làm nổi bật hình ảnh của bài thơ. Những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là sự phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu sâu sắc hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Hai chữ “Bài thơ” cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà điều chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.
Những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường là một hình ảnh độc đáo của bài thơ. Hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đưa vào thơ văn thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hoá” và thường mang ý nghĩa tượng trưng.
Trong bài thơ này, những chiếc xe không kính là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực: “Không có kính không phải là xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”, câu thơ đậm chất văn xuôi lại có giọng thản nhiên, càng gây ra sự chú ý về vẻ khác lạ của những chiếc xe. Cách giải thích của tác giả cho thấy đây là những chiếc xe đã đi qua bom đạn thử thách, là xe của những con người quả cảm. Cái không bình thường của xe đã được bình thường hóa.
Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe bị phá hủy, biến dạng đi, trần trụi hơn nữa: “Không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước”. Tất cả “không” và “có” ấy (có “xước” cũng là thêm sự hư hại) đều là tổn thất, mất mát, có thế ảnh hưởng đến sự lăn bánh của xe. Nhưng bộ não, linh hồn của xe dường như không phải là máy móc mà là tấm lòng người chiến sĩ nên: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước – Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn không phải hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thơ trở thành hình tượng độc đáo của thơ thời chiến tranh chống Mĩ. Hình ảnh này tạo nên cái tứ độc đáo, vừa nói được cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ trong cuộc chiến tranh khốc liệt chống đế quốc Mĩ. Hình ảnh những chiếc xe không kính trong bài thơ góp phần khắc họa một nét tư thế, chân dung của một dân tộc anh hùng.
Hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến. chống Mĩ được khắc họa đậm nét trong bài thơ. hình ảnh họ được miêu ta gắn liền với những chiếc xe, đồng thời nổi bật lên trong toàn bài thơ.
Xe không kính là biểu tượng của khó khăn, thiếu thốn, gian khổ. Thiếu đi những điều kiện phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao và đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn.
Người lái xe được miêu tả với những ấn tượng, cảm giác rất cụ thể ngồi trên xe không kính. Với tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng khung cửa xe không còn kính chắn gió, người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng /Thấy con đường chạy thẳng vào tim / Thấy sao trời và đột ngột cánh chim / như sa như ùa vào buồng lái”. Câu thơ diễn tả được cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh trên đường. Qua khung cửa xe không có kính, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời sao, cánh chim như cũng ùa vào buồng lái. Nhà thơ diễn tả chính xác cái cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái. Những hình ảnh con đường, sao trời, cánh chim vừa thực, vừa thơ, là cái thi vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn lửa. Hiện thực thì khốc liệt; mọi thứ có thế va đập, quăng quật vào buồng lái những người chiến sĩ cảm nhận nó bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhạy cảm với cái đẹp, một nghị lực phi thường. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” còn là một khái quát đặc sắc về con đường Trường Sơn, con đường giải phóng miền Nam. Những câu thơ trên hé lộ diện mạo tinh thần thầm kín của người chiến sĩ.
Người chiến sĩ lái xe được khắc họa với những nét tính cách thật cao đẹp. Họ hiện ra trong tư thế ung dung, hiên ngang, tự tin, tự hào:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Hai câu thơ sáu chữ nhịp 2/2/2 và chữ “ung dung” đảo lên đầu câu làm nổi bật tư thế ấy. “Nhìn thẳng” là con mắt nhìn có vẻ trang nghiêm, bất khuất, không thẹn với đất, với trời, nhìn thẳng vào gian khổ hi sinh, không run sợ, né tránh.
Nét nổi bật ở họ là thái độ bất chấp khó khăn, gian khổ, hiểm nguy với tinh thần quả cảm:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Giọng ngang tàng, bất chấp gian khổ thể hiện rõ trong cấu trúc lặp lại: “Không có kính… ừ thì… chưa cần…” và những chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, “lái trăm cây số nữa” (trăm cây số giữa đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc). Gió, bụi, mưa,… có thể gây bao khó khăn, nhưng người chiến sĩ đã bình thường hóa cái không bình thường đó và vượt lên với tất cả sự cố gắng cùng tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian khổ như một tất yếu. Khó khăn không mảy may ảnh hưởng tới tinh thần của họ. Hình ảnh họ mang một vẻ đẹp kiên cường và lãng mạn.
Những chiến sĩ lái xe còn là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn, lạc quan, rất gắn bó với đồng đội. Khuôn mặt phủ đầy bụi đường lấm lem mà họ: “Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Quả là tiếng thơ, tiếng cười của một thế hệ trẻ tuổi: Sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những tiểu đội xe không kính. Họ có thể bắt tay qua cửa kính vỡ rồi mà không cần mở cửa xe, thật thoải mái, tự hào, thắm tình đồng đội. Con đường giải phóng miền Nam là con đường đi tới chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bè bạn: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Tình cảm ấy thắm thiết như ruột thịt, như anh em trong gia đình: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Một cách định nghĩa về gia đình thật lạ, thật tếu hóm hỉnh mà tình cảm thì sâu nặng thiêng liêng. Những phút sinh hoạt, nghỉ ngơi ngắn ngủi, cái ăn, giấc ngủ thật giản dị, gian khó nhưng tâm hồn người lính thật vui tươi lạc quan, có gì xao xuyến: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. “Chông chênh” gì thì “chông chênh” nhưng khí phách, nghị lực, ý chí chiến đấu thì vững vàng, kiên định, vượt lên tất cả. Tình đồng đội tiếp cho họ sức mạnh để tâm hồn họ phơi phới, lạc quan. Điệp ngữ “lại đi” khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Hình ảnh “ trời xanh thêm” gợi lên tâm hồn lạc quan, đầy hi vọng, khát vọng của những người lính.
Động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh phi thường, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt tàn phá như vậy của người lái xe chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam, là tình yêu nước nồng nhiệt của tuổi trẻ. Khổ thơ cuối tạo nên kết cấu đối lập, bất ngờ mà sâu sắc: đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, giữa vẻ bên ngoài và bên trong những chiếc xe. Những chiếc xe bị bom Mĩ làm cho biến dạng đến trần trụi: “Không có kính rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước”. Nhưng điều lạ là những chiếc xe trơ trụi ấy vẫn băng ra chiến trường. Tác giả lí giải bất ngờ mà chí lí: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Mọi thứ của xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ cần: vẹn nguyên trái tim người chiến sĩ – trái tim vì miền Nam thì xe vẫn chạy, “tất cà cho tiền tuyến”. Đó không chỉ là sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên mọi gian khổ, ác liệt mà còn là sức mạnh của tình yêu nước trái tim ấy khiến chiếc xe trở thành một cơ thể sống thống nhất với người lái xe, không gì tàn phá, ngăn trở được. Xe chạy bằng tim, bằng xương máu những chiến sĩ anh hùng. Trái tim ấy tạo ra niềm tin, niềm lạc quan và sức mạnh chiến thắng. Điều ấy làm cho những chiếc xe càng thêm độc đáo. Vì đó là những chiếc xe do trái tim cầm lái.
Bài thơ đã khắc chạm được hình ảnh đẹp đẽ, ngang tàng đầy khí phách, đầy chất kiêu hùng trong vẻ giản dị nhất của người chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn thời chống Mĩ. Đó cũng là hình ảnh anh bộ đội Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ.
Ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ cũng là sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Phạm Tiến Duật góp phần khắc hoạ hình ảnh người chiến sĩ lái xe.
Ngôn ngữ bài thơ giản dị, ngồn ngộn chất sống – đời sống chiến trường vừa làm giàu thêm chất liệu thơ ca, vừa thể hiện chân thực hình ảnh người lính lái xe. Lời thơ gần với lối văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường nhưng vẫn giàu chất thơ. Chất thơ toát lên từ những hình ảnh độc đáo, từ vẻ hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi, trẻ trung của người lính, từ những ấn tượng, cảm giác cụ thể, sống động của họ khi ngồi trên xe không kính,…
Ngôn ngữ đó góp phần tạo nên giọng điệu đó là giọng ngang tàng, có cả chất nghịch ngợm, phù hợp với đối tượng miêu tả (những chàng lái xe không kính). Thể thơ kết hợp linh hoạt thể bảy chữ và thể tám chữ có chỗ sáu chữ hay mười chữ tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động, góp phần tạo nên chất thơ mới, giọng điệu mới của thơ ca chống Mĩ. Nó bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm.
Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ từ hình ảnh người lính trong bài thơ.
Đó là một thế hệ đã sống thật đẹp, thật anh hùng, ý thức sâu sắc về sứ mệnh lịch sử của mình, trong gian khổ, hi sinh vẫn phơi phới, lạc quan. Họ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai”, “Đi chiến trường như trẩy hội mùa xuân” – “Mưa bom bão đạn lòng thanh thản”. Mãi mãi các thế hệ vẫn khâm phục, tự hào, biết ơn họ.
So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này và bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Hai bài thơ đã khắc họa được hình ảnh người lính qua hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ. Nét chung ở họ là lòng yêu nước, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, là thái độ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, sống lạc quan và có tình đồng đội thắm thiết.
Nhưng mỗi bài thơ lại thể hiện người lính với nét riêng. Bài Đồng chí thể hiện hình ảnh những người lính hầu hết xuất thân từ nông dân, từ thân phận nô lệ, nghèo khổ mà đi vào kháng chiến với vô vàn gian khó, thiếu thốn. Cách mạng là sự giải thoát cho số phận đau khổ, tối tăm của họ. Còn thế hệ trẻ thời chống Mĩ đi vào cuộc chiến đấu với ý thức giác ngộ về lí tưởng độc lập tự do gắn với chủ nghĩa xã hội, ý thức sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ mình. Họ sống sôi nổi, trẻ trung, yêu đời, lạc quan, tự tin. Hình ảnh họ được thể hiện trong một thời điểm quyết liệt, khẩn trương hơn. Đó là một thế hệ anh hùng, hiên ngang, mạnh mẽ.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 21
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai
Lời của bài thơ vang lên làm cho chúng ta cùng nhớ về những năm tháng chiến đấu chống quân xâm lược của những người lính đã xả thân để hi sinh vì đất nước. Thời gian này, tuy là thời gian khó khăn thế nhưng những người lính bộ đội cụ hồ vẫn giữ cho mình những niềm lạc quan, hứng khởi trong cuộc sống và công việc Và bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ như vậy. đó là hình ảnh của những chiếc xe không có kính, trần trụi một cách thật tự nhiên nhưng lại mang rất nhiều những ý nghĩa trong đó. Qua đây, tác giả Phạm Tiến Duật đã cho chúng ta thấy được những khó khăn gian khổ và ý chí của những người lính bộ đội lớn như thế nào.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Mở đầu bài thơ như một lời nói chuyện nho nhỏ về cuộc đời của chiếc xe, cũng như lời nói đùa vui của anh lính với những ai đang thắc mắc về chiếc xe của mình. Bom đạn chiến đấu ác liệt đa làm tàn phá những chiếc xe ban đầu vốn rất tốt, sau đó, những bộ phận của chúng dần dần không còn nữa, từng thứ một đã bị hỏng trước những áp lực công suất của bom chiến biến thành không có kính, không mui, không đèn, thùng xe bị xước và không còn nguyên vẹn nữa. Hình ảnh những chiếc xe như vậy không phải là hình ảnh hiếm hoi nữa mà thậm chí nó còn vô cùng phổ biến trong suốt những cuộc kháng chiến. Thế nhưng dù hoàn cảnh có khó khăn như vậy thì hình ảnh của những người lính lái xe mới lại càng được nổi bật.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Nhịp thơ tự do có phần nhanh hơn, nhưng lại khiến cho người đọc có cảm giác như đang được cùng ngồi trên chiếc xe ấy để nhìn thấy mọi thứ xung quanh. Tất cả những điều mà chúng ta tưởng rằng khó khăn thì chúng lại trở thành những ưu điểm có thể nhìn được trời đất một cách tự do không bị gò bó, có thể có được cảm giác tự tại mà hiếm khi nào những người lính mới có thể cảm nhận được, bất chấp hết cả những khó khăn và gian khổ trước mắt.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người giá
Hay là những khi: Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Những điều đó đã làm cho họ càng trở nên vui vẻ hơn bao giờ hết, như một gia vị của cuộc sống và hiếm khi mới được trải nghiệm.
Những chiếc xe về trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tớ
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Thế đấy, những người lính trẻ tuổi vẫn mang trong mình một tâm hồn trẻ trung dù là ở bất cứ hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Họ vẫn luôn tin vào tương tại của tổ quốc, nơi mà tình bạn tình đồng chí luôn được mọi người quan tâm, coi trọng.
Tóm lại, với một chất giọng trẻ, tâm hồn tươi đẹp mà bài thơ đã mang tới những luồng gió mới, khiến chúng ta càng thêm cảm phục những người lính đã chiến đấu vì tổ quốc.
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 22
Trong những năm tháng cam go quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ tuyến đường Trường Sơn đầy mưa bom, bão đạn, nhà thơ Phạm Tiến Duật đồng thời cũng là anh bộ đội đã viết những bài thơ ca ngợi người lính trên chiến trường với một phong cách thơ riêng biệt, độc đáo. Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những bài thơ để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
Được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những chiếc xe trên tuyến đường Trường Sơn đảm nhận vai trò quan trọng trong việc chi viện cho tiền tuyến miền Nam, nhưng điểm đặc biệt của những chiếc xe trong thời kỳ này chính là hình dáng vô cùng đặc biệt: những chiếc xe không kính.
Hình tượng thơ thường gắn liền với cái đẹp, vẻ trau chuốt, sự kỳ vĩ. Theo lẽ thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. Ấy thế mà tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng chính xuyên suốt bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này đã có tác dụng tạo nên ấn tượng mạnh, là tiền đề để làm nổi bật chất dũng cảm, ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan và ý chí quyết tâm giành chiến thắng. Hình tượng ấy đã gợi lên những nguy hiểm cận kề tưởng chừng như cái chết, sự hy sinh đã ở đâu đó rất gần người lính, thế nhưng Phạm Tiến Duật diễn tả nó với lời thơ rất bình dị:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi…”
Cấu trúc phủ định của phủ định như khẳng định thực tại ác liệt của cuộc chiến tranh và nỗi thiếu thốn đủ bề của những người chiến sĩ. “Bom giât, bom rung” làm kính “vỡ đi rồi”. Câu thơ mang đậm vẻ tiếc nuối, biện pháp tu từ im lặng cuối câu như kéo dài sự nuối tiếc ấy thêm nhiều lần nữa.
Khắc họa hình ảnh những chiếc xe không kính chính là khắc họa gián tiếp hình tượng những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn kiên cường, dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn với niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu vì miền Nam. Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, các anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía trước, thực hiện lời kêu gọi “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Câu thơ chuyển sang nhịp điệu thanh thản, tự tin:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Những từ ngữ chọn lọc “ung dung”, “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” thể hiện tư thế, phong cách anh bộ đội lái xe trên đường ra trận. Tư thế hiên ngang, lòng tự tin ấy còn được thể hiện ở chỗ bất chấp “bom giật, bom rung” của kẻ thù, vẫn cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, những nét đẹp lãng mạn mặc dù cái chết vẫn đang luẩn quẩn, rình rập đâu đó quanh họ. Hình ảnh thơ thật đẹp làm sao:
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những thiếu thốn, khó khăn vật chất lại càng không ngăn đường con đường anh đi tới:
“Không có kính, ừ thì có bụi”
“Không có kính, ừ thì ướt áo”
Cấu trúc “Không có kính, ừ thì…” chính là thái độ chấp nhận hay nói chính xác hơn là thái độ ngang tàng không đoái hoài, không quan tâm đến những điều ấy. Câu thơ mộc mạc như lời nói thường ngày đầy dí dỏm, tinh nghịch ấy đã giúp ta hiểu được, cảm nhận được những khó khăn mà người chiến sĩ giải phóng quân phải chịu dừng và chấp nhận.
Cách giải quyết khó khăn của các anh cũng thật bất ngờ, thú vị:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.
Ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui vẻ thể hiện niềm lạc quan, yêu đời của tuổi trẻ sống có lý tưởng, hoài bão, ước mơ. Tư thế hiên ngang, lòng dũng cảm đã làm nên sức mạnh của anh bộ đội. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội vì cạnh anh còn có cả tập thể anh hùng. Từ trong bom đạn hiểm nguy, “Tiểu đội xe không kính” được hình thành, bao gồm những con người tứ xứ, chung lý tưởng gặp nhau thành bạn bè:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Thì ra những chiếc kính vỡ cũng có được cái lợi của nó, không phải mất thời gian để kéo kính, chỉ cần đưa tay qua ô cửa là có thể “bắt tay” người đồng chí, đồng đội của mình. Không chỉ vậy, các anh còn cùng chung niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ, của tình đồng đội, đồng chí:
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy”
Một định nghĩa mới mẻ về gia đình được Phạm Tiến Duật đặt ra, đơn giản thôi nhưng lại đầm ấm tình đồng chí: “chung bát đũa”. Đọc những câu thơ này làm ta nhớ lại âm điệu sôi nổi vui tươi của ca khúc “Năm anh em trên một chiếc xe tăng” với những ca từ chân chất, đậm tình: “Năm anh em mỗi đứa một nơi, đã lên xe là cùng một hướng…”. Họ vẫn cùng nhau cười đùa sảng khoái, tranh thủ mắc chiếc võng chông chênh tranh thủ giấc ngủ vội vàng dẫu biết rằng mai đây trong số họ sẽ khó có thể hội ngộ trong những bữa cơm giữa đường xe chạy thế này. Những khó khăn ấy lại tiếp tục được tác giả khắc họa với những khó khăn gian khổ nhiều hơn, chiến tranh càng ác liệt hơn:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Thế nhưng, dù cho thực tại khó khăn, cuộc chiến tranh càn quét của kẻ thù có ác liệt đến mấy, thì ý chí chiến đấu quên mình vì tiền tuyến của các anh bộ đội vẫn không hề nao núng: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng “Chỉ cần trong xe có một trái tim” đã thay cho tấm lòng của tác giả phản ánh được lòng yêu nước và ý chí quyết tâm giành chiến thắng. Trái tim đó chính là tình yêu, là tuổi trẻ, là lý tưởng và nhiệt huyết của người chiến sĩ lái xe, vượt chặng đường dài để nối liền hai miền Tổ quốc.
Bằng những hình ảnh mang tính tạo hình, nhiều lần sử dụng cấu trúc phủ định với âm điệu trẻ trung, vui tươi, lời thơ như tiếng nói đời thường, Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh những anh bộ đội lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy cam go, thử thách. Một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Hình ảnh những chiếc xe không kính và hình tượng người chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” dẫu đậm chất thơ như chính tên tác phẩm nhưng cũng không giấu được những vất vả, hiểm nguy mà những người chiến sĩ phải trân mình chịu đựng. Đó là hình hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong những tháng ngày hoa lửa trên tuyến đường Trường Sơn gian khổ, hào hùng.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật Dàn ý & 24 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.