Dàn ý Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành tổng hợp 7 mẫu dàn ý chi tiết, đầy đủ nhất. Qua dàn ý bài Vợ nhặt giúp các bạn học sinh có thêm nhiều nguồn tư liệu học tập, trau dồi kiến thức nhanh chóng nắm được các luận điểm, luận cứ để viết bài văn hay hoàn chỉnh.
Rừng xà nu là tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Trung Thành được viết năm 1965, khi đế quốc Mĩ bắt đầu dồn quân ồ ạt vào miền Nam, các chiến dịch càn quét được tổ chức với quy mô rầm rộ hơn. Tác phẩm ra đời như một biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và dân tộc ta nói chung. Vậy sau đây là 7 dàn ý xoay quanh tác phẩm Rừng xà nu hay nhất mời các bạn cùng đón đọc.
Dàn ý phân tích nhân vật Tnú
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trung Thành: Là người con gắn bó trên mảnh đất Tây Nguyên lộng gió, ông đã sáng tác nên nhiều tác phẩm nổi tiếng về Tây Nguyên, điển hình là tác phẩm “Rừng xà nu”.
– Giới thiệu đôi nét về tác phẩm “Rừng xà nu”: Viết vào thời kì kháng chiến chống Mỹ, sáng tác vào năm 1965.
– Nhấn mạnh yêu cầu của đề bài: Nhân vật Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm, con người tiêu biểu đại diện cho dân làng Xô Man trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ.
II. Thân bài
– Hoàn cảnh xuất thân của nhân vật Tnú:
– Tnú mồ côi cha mẹ ngay từ khi còn là đứa trẻ thơ, anh lớn lên trong sự yêu thương, bảo vệ và giúp đỡ của dân làng Xô Man. Tnú hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp, đại diện cho cộng đồng dân tộc người Xô Man có tinh thần chiến đấu kiên cường trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng khốc liệt.
– Tinh thần gan dạ, dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu vì đất nước
+ Khi còn là đứa trẻ:
- Ngay từ khi còn nhỏ, chàng trai Tnú đã được giác ngộ về lí tưởng cách mạng cao cả, giác ngộ về lí tưởng Đảng một cách đúng đắn. Tnú còn tự giác xung phong đi nuôi giấu cán bộ.
- Tnú là một người trung thành với Đảng và cách mạng, khi bị giặc phát hiện ra mình, anh không hề sợ mà ngược lại còn vô cùng can đảm trước mặt giặc. Bên cạnh đó, anh còn là một người rất nhanh nhẹn, không lúng túng trước mọi tình huống bất ngờ.
- Tnú cũng ý thức được tầm quan trọng của việc học, anh giương cao tinh thần, ý chí quyết tâm của mình qua hành động lấy đá đập lên đầu mình.
+ Khi đã trưởng thành:
- Lúc anh Quyết hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, anh đã thay mặt anh Quyết để đại diện dân làng
- Xô Man với những suy nghĩ, hành động để có thể chiến đấu với giặc.
- Anh yêu thương vợ con của mình, khi thấy cả hai đều bị giặc xâm chiếm, Tnú đã xông vào cứu vợ và con của mình, không thể bỏ mặc họ trước những hiểm nguy.
- Khi anh bị giặc bắt, chúng đã đốt 10 ngón tay của anh, nhưng anh không hề kêu than. Dù có đứng trước bất kì một sự hiểm nguy nào, Tnú vẫn cho mọi người thấy được sự gan dạ luôn được hình thành trong con người anh.
– Tin tưởng tuyệt đối vào Đảng và cách mạng
- Ngay từ khi còn là một đứa trẻ, Tnú đã được giác ngộ về lí tưởng cách mạng nên anh rất trung thành và một lòng nhiệt huyết với đất nước.
- Anh đã làm nhiệm vụ gia nhập vào lực lượng giải phóng quân vì tình yêu gia đình và tình yêu đất nước, vợ con anh chết đã tạo cho anh động lực để trả thù.
- Tnú đã lập được chiến công, mang lại sự vẻ vang cho Đảng và cách mạng.
- Ý nghĩa của câu nói “chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo” trong rừng xà nu
– Phẫn nộ trước sự xâm lược của giặc, một trái tim đủ đầy yêu thương
- Không chỉ là một người con yêu nước, trung thành với Đảng và cách mạng từ nhỏ cho đến lớn,
- Tnú còn hết mực thương yêu vợ con của mình. Anh không thể kiềm lòng trước hình ảnh vợ con mình bị giặc tra tấn nên đã xông ra để cứu nhưng vẫn bị quân thù bắt lại.
- Bên trong con người anh có ba mối thù lớn mà anh nhất quyết phải trả đó là mối thù của buôn làng, mối thù của vợ con và mối thù của chính bản thân anh.
- Quê hương là điều mà anh luôn khắc ghi trong tim. Nên khi tham gia chiến đấu, anh rất nhớ nhà.
– Đôi bàn tay Tnú là hình ảnh biểu trưng
- Đôi bàn tay ấy đã nắm lấy trọn vẹn tình yêu thương từ anh Quyết, từ Mai.
- Đôi bàn tay căm thù khi thấy vợ con mình bị tra tấn khốc liệt.
- Đôi bàn tay căm phẫn tồn tại ba mối thù lớn nhất định phải trả.
- Bên trong Tnú, luôn tồn tại một ý chí chiến đấu mạnh mẽ, rằng “chúng nó cầm súng thì mình phải cầm giáo”.
III. Kết bài
– Đôi nét về nghệ thuật của tác phẩm “Rừng xà nu”: nghệ thuật nổi bật truyện lồng truyện, ngôn ngữ đậm nét sử thi, hình tượng nhân vật biểu trưng.
– Cảm nhận về nhân vật Tnú và tác phẩm: Là nhân vật đại diện cho con người Tây Nguyên sẵn sàng chiến đấu, vượt lên nỗi đau khi nhìn thấy những người mình thương yêu bị tra tấn nhưng lấy đó làm động lực để chiến đấu trả lại công bằng cho mọi người.
Dàn ý vẻ đẹp các thể hiện dân làng Xô Man
I. Mở bài
- Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Trung Thành, truyện ngắn Rừng xà nu.
- Dẫn dắt giới thiệu đến nội dung cần phân tích: vẻ đẹp các thế hệ dân làng Xô Man.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
– Truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành đưa ta đến vùng đất có bao điều kỳ lạ. Bên cạnh vẻ đẹp kì vĩ của núi rừng Tây Nguyên là những con người mang vẻ đẹp sử thi. Họ là những con người có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, hiên ngang bất khuất trước kẻ thù. Có thể nói đó là những dũng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh của thế trận nhân dân Tây Nguyên trong thời chống Mĩ.
2. Phân tích các thế hệ người Tây Nguyên
a. Cụ Mết
– Trước hết là nhân vật cụ Mết, cụ được nhà văn miêu tả là một già làng sáu mươi tuổi đại diện cho vẻ đẹp thế hệ thứ nhất, thế hệ cha anh.
– Ở cụ còn in đậm những dấu ấn siêu phàm của những già bản trong các truyện thần thoại. Đó là một con người “quắc thước, giọng nói ồ ồ vang dội trong lồng ngực mang âm hưởng của Tây Nguyên hùng vĩ. Bàn tay nặng trịch rắn như kìm sắt, cặp mắt xếch và sáng, ngực cụ ở trần căng như cây xà nu cỡ lớn”.
– Cụ được xem như linh hồn của cuộc chiến đấu, là người nuôi dưỡng khát vọng tự do, là cầu nối giữa cách mạng, Đảng, Bác Hồ với dân làng Xô Man.
– Hiểu rõ và ý thức sâu sắc về đường lối cách mạng, cụ đa nói với Tnú và dân làng: Phải dự trữ gạo cho mỗi bếp được ba năm, đánh Mỹ là phải đánh dài.
– Cụ lãnh đạo nhân dân mài vũ khí. Có thể nói từ hành động đến tư tưởng, tính cách ở cụ Mết đều mang đậm màu sắc huyền thoại phi thường. Nói như nhà văn Nguyễn Trung Thành cụ là gạo cội nguồn của Tây Nguyên thời “Đất nước đứng lên”. Cụ như lịch sử bao trùm nhưng không che khuất sự mãnh liệt sôi nổi của thế hệ sau.
b. Tnú
– Tnú ngay từ nhỏ đã thể hiện bản thân là một chiến sĩ cộng sản, kiên cường, mưu trí, qua việc:
- Học chữ: lấy đá đập vào đầu để trừng trị tính hay quên.
- Tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng
- Khi bị địch bắt: ắp tay vào bụng trả lời “Ở đây này”.
– Lớn lên: dáng vóc và tính cách Tnú mang lúc trưởng thành mang dáng dấp của người anh hùng.
- Tnú bảo vệ dân làng, bảo vệ cán bộ. Khi mẹ con Mai bị bắt, bị tra tấn, ánh mắt Tnú như hai hòn lửa lớn, căm hận, xông ra bảo vệ mẹ con Mai, nhưng không kịp, anh còn bị giặc bắt.
- Bị bắt nhưng không chịu khuất phục. Chúng tra tấn anh, quấn giẻ vào mười đầu ngón tay anh, dùng nhựa cao su đốt. Lửa cháy ở mười đầu ngón tay anh nhưng anh không kêu lên đến một tiếng, bởi vì “người cộng sản không thèm kêu van”.
=> Vẻ đẹp của một con người anh hùng.
c. Mai và Dít
– Hiện lên trong tác phẩm “Rừng xà nu”, Mai và Dít là hình ảnh của những người phụ nữ mới của Tây Nguyên:
– Mai:
- Mai học chữ để làm cách mạng khi còn rất nhỏ như Tnú.
- Mai dũng cảm lấy thân mình bảo vệ đứa con và chị đã hy sinh
– Dít:
- Dít thay Mai đi tiếp con đường cách mạng.
- Khi Mai cùng đứa con nhỏ bị giặc giết hại, dân làng ai cũng khóc thương nhưng Dít câm lặng, mắt ráo hoảnh nuốt hận vào bên trong.
- Dít vẫn bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết và lũ thanh niên. Bọn thằng Dục bắt được Dít, chúng biến Dít thành tấm bia sống nhưng Dít không hề hoảng sợ.
- Mười chín tuổi, Dít đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội
=> Có thể nói Nguyễn Trung Thành đã dành tình cảm yêu mến xen lẫn với sự khâm phục khi nói về Mai và Dít. Họ là những phụ nữ Tây Nguyên tiêu biểu thể hiện vai trò của mình trong cuộc chiến tranh cách mạng và đây cũng là bước phát triển đáng ghi nhận trong quan điểm sáng tác và phong cách của nhà văn.
d. Bé Heng
– Còn nhân vật bé Heng đại diện cho vẻ đẹp thế hệ măng non ở núi rừng Tây Nguyên.
– Heng tuy tuổi đời còn nhỏ nhưng mang dáng vẻ của một tiểu anh hùng. Em hăng hái nhiệt tình tham gia cách mạng.
=> Bé Heng khiến người đọc tin tưởng rằng đó là lớp người kế tục xứng đáng truyền thống cha anh và là lực lượng nòng cốt của cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc.
3. Khái quát chung
Như vậy thế hệ trẻ Tây Nguyên được Nguyễn Trung Thành thể hiện trong tác phẩm là những con người gan góc dũng cảm, sớm lí tưởng giác ngộ cách mạng sẵn sàng sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Tuy vậy ở họ vẫn còn bộc lộ sự thiếu kinh nghiệm trong đấu tranh với kẻ thù. Dù sao qua tác phẩm này nhà văn vẫn khẳng định họ là những người kế tục xứng đáng truyền thống của cha anh và là lực lượng nòng cốt của cách mạng.
III. Kết bài
Khẳng định vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man trong tác phẩm Rừng xà nu.
Xem thêm Phân tích vẻ đẹp của các thế hệ dân làng Xô Man
Dàn ý phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong Rừng xà nu
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành, tác phẩm Rừng xà nu.
- Dẫn dắt đến nội dung cần phân tích: phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong Rừng xà nu.
II. Thân bài
1. Nhân vật Tnú
– Tnú là tượng đài về hình tượng người anh hùng Tây Nguyên trong nền văn học thời kỳ chống Mỹ cứu nước, mang khuynh hướng sử thi và lãng mạn cách mạng sâu sắc, đặc trưng.
– Cậu bé Tnú đã tỏ ra là một người anh hùng, một mầm non sáng giá của cách mạng khi hăng hái tham gia vào công tác nuôi giấu cán bộ, vận chuyển lương thực, thư từ…
– Bị giặc bắt giam nhưng Tnú không hề hé rằng lấy nửa lời, kiên trung và thách thức bọn giặc khi chúng hỏi cách mạng ở đâu bằng việc chỉ vào bụng mình mà nói “ở đây này”, sau ba năm bị bắt giam Tnú tìm mọi cách vượt ngục và trở về làng tiếp tục tham gia làm cách mạng.
– Sự anh hùng của Tnú còn thể hiện trong vai trò với gia đình khi nhảy vào giữa bọn giặc ôm lấy vợ con đang hấp hối, che chở cho họ khỏi đòn roi, một cách đầy bản lĩnh và tràn ngập tình yêu thương.
– Dù lửa thiêu đốt mười đầu ngón tay, đau đớn vào đến tận ruột gan, nhưng Tnú không hề kêu văn lấy một tiếng, trong tâm khảm chỉ hiện lên một câu nói “người cộng sản không thèm kêu van”. Thể hiện sự dũng cảm, tầm vóc phi thường của một người anh hùng.
– Mạnh mẽ đứng lên từ đau thương, tiếp tục tham gia kháng chiến, với mối nợ nước thù nhà và lòng căm thù giặc sâu sắc, dùng chính đôi bàn tay cụt mười đầu ngón của mình bắp cò súng diệt giặc trên chiến trường, thậm chí còn mạnh mẽ dùng tay không bóp chết một tên giặc Mỹ.
2. Cụ Mết
– Dấu gạch nối đậm nét giữa dân làng Xô Man với cách mạng và Đảng, mang trong mình những vẻ đẹp sử thi, truyền thống của dân tộc Tây Nguyên với ngoại hình khỏe mạnh cường tráng, giọng nói ồm ồm và tư chất của một người lãnh đạo một già làng có uy tín.
– Sự anh hùng của cụ thể hiện thông qua quá trình trực lãnh đạo dân làng Xô Man tham gia vào kháng chiến:
- Ngăn cản Tnú cứu mẹ con Mai vì anh chỉ có hai bàn tay không. Cụ Mết muốn thay Tnú cứu mẹ con Mai nhưng cũng chỉ có hai bàn tay không.
- Ra lệnh cho thanh niên trai tráng xông vào cứu Tnú bằng câu nói đậm chất Tây Nguyên “Chém! Chém hết”, mang đến một trận thắng vang dội đầu tiên cho làng Xô Man, hơn mười tên giặc Mỹ bị chém chết, mở ra một thời kỳ mới thời kỳ chiến đấu sôi nổi của dân làng Xô Man.
– Phẩm chất anh hùng của cụ Mết còn bộc lộ trong tầm nhìn và cách lãnh đạo dân làng kháng chiến của cụ.
– Phát động kháng chiến trong làng bằng một những lời tâm huyết, mạnh mẽ cổ vũ tinh thần của dân làng: “Thế là bắt đầu rồi!… Đốt lửa lên!”.
– Tấm lòng giác ngộ cách mạng sâu sắc: “Đảng này còn núi nước này còn”, “Chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”, bộc lộ sâu sắc phẩm chất anh hùng, kiên trung quyết sống chết để bảo vệ từng tấc đất quê hương, giành lại tự do cho dân tộc.
3. Mai và Dít
– Hiện lên trong tác phẩm “Rừng xà nu”, Mai và Dít là hình ảnh của những người phụ nữ mới của Tây Nguyên:
– Mai:
- Mai học chữ để làm cách mạng khi còn rất nhỏ như Tnú.
- Mai dũng cảm lấy thân mình bảo vệ đứa con và chị đã hy sinh
– Dít:
- Dít thay Mai đi tiếp con đường cách mạng.
- Khi Mai cùng đứa con nhỏ bị giặc giết hại, dân làng ai cũng khóc thương nhưng Dít câm lặng, mắt ráo hoảnh nuốt hận vào bên trong.
- Dít vẫn bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết và lũ thanh niên. Bọn thằng Dục bắt được Dít, chúng biến Dít thành tấm bia sống nhưng Dít không hề hoảng sợ.
- Mười chín tuổi, Dít đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội
=> Có thể nói Nguyễn Trung Thành đã dành tình cảm yêu mến xen lẫn với sự khâm phục khi nói về Mai và Dít. Họ là những phụ nữ Tây Nguyên tiêu biểu thể hiện vai trò của mình trong cuộc chiến tranh cách mạng và đây cũng là bước phát triển đáng ghi nhận trong quan điểm sáng tác và phong cách của nhà văn.
4. Tập thể làng Xô Man
– Cả làng có truyền thống đánh giặc từ lâu đời và nhiệm vụ kháng chiến không phải chỉ riêng của một cá nhân nào mà là của cả một tập thể không phân biệt già trẻ, gái trai.
– Lớp này ngã xuống đã có lớp khác kế cận nối tiếp, tiêu biểu như trong việc nuôi giấu cán bộ cách mạng, những người như anh Xút, bà Nhan hy sinh thì lại có những đứa trẻ như Tnú, Mai, Dít, Heng… trở thành những người tiếp nối những người con anh hùng sáng giá của cách mạng.
III. Kết bài
Khẳng định lại phẩm chất anh hùng của những nhân vật trong Rừng xà nu.
Xem thêm Phân tích phẩm chất anh hùng của những nhân vật trong Rừng xà nu
Dàn ý chứng minh Rừng xà nu là bản anh hùng ca
A. Mở bài
– Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó máu thịt với mảnh đất và con người Tây Nguyên.
– Tác phẩm “Rừng xà nu” được sáng tác năm 1965 – những năm tháng ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ và được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng điện ngọc”.
– Truyện ngắn “Rừng xà nu” được đánh giá là bản anh hùng ca của con người Tây Nguyên.
B. Thân bài
I. Bản anh hùng ca là gì?
– Anh hùng ca là tác phẩm tự sự sử thi bằng thơ hoặc văn xuôi có dung lượng lớn, hoành tráng phản ánh những sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại hoặc lấy những truyền thuyết cổ đại làm nội dung, xây dựng những hình tượng anh hùng đại diện cho cộng đồng quốc gia dân tộc, mang nhiều sắc thái ảo tưởng và thần thoại. Các tác phẩm anh hùng ca thường mang tính toàn dân hay toàn dân tộc.
– Một số bản anh hùng ca nổi tiếng của thế giới như hai bộ sử thi Iliad và Odyssey của Hy Lạp, Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ, sử thi Đăm Săn và Đẻ đất đẻ nước của Việt Nam…
– Rừng xà nu được coi là một bản anh hùng ca của nhân dân Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
II. Phân tích để làm rõ chất anh hùng ca trong “Rừng xà nu”
1. Nội dung
a. Nhân vật:
* Tnú – người anh hùng đại diện cho cộng đồng Tây Nguyên:
Truyện “Rừng xà nu” tập trung xây dựng hình ảnh nhân vật Tnú. Cuộc đời của Tnú chính là cuộc đời của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên:
– Hoàn cảnh: Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được cả dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc.
=> Đứa con chung của dân làng Xô Man.
– Khi còn nhỏ:
- Tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng.
- Học chữ lấy đá đập vào đầu để trừng phạt tính hay quên.
- Khi bị địch bắt, ắp tay vào bụng trả lời: “ Cộng sản ở đây này”.
=> Tuổi thơ đầy ắp những chiến công và kỳ tích, tuổi thơ của một tiểu anh hùng.
– Khi trưởng thành: Tnú vượt ngục trở về lãnh đạo dân làng chống lại bọn Mỹ – Diệm
- Khi Mai và đứa con bị bắt và bị tra tấn dã man, Tnú đã tạm gác nỗi đau riêng để vì sự nghiệp chung. Tnú đã đặt lợi ích cá nhân sau lợi ích của cách mạng, biết đặt tổ quốc lên trên hết.
- Khi đứa con chết, lao ra giải cứu mẹ con Mai. Đó là hình ảnh một người chồng người cha đời thường.
- Hình ảnh mười đầu ngón tay của Tnú bị nhựa xà nu thiêu cháy chứng tỏ chân lí: “Chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”.
=> Cuộc đời của Tnú chính là cuộc đời của dân làng Xô Man: đau thương nhưng anh dũng.
* Dân làng Xô Man: dân làng cách mạng
– Cụ Mết: đại diện cho thế hệ đầu của nhân dân Tây Nguyên, là người phán truyền lịch sử.
– Bà Nhan, anh Xút chết đã có Mai, Tnú, Dít lên thay, bé Heng cũng sẵn sàng tiếp nối: thế hệ những người con Tây Nguyên nối tiếp nhau tham gia cách mạng.
b. Hình tượng cây xà nu: biểu tượng cho phẩm chất, sức mạnh của con người Tây Nguyên
– Là loại cây mọc khắp mảnh đất Tây Nguyên, đặc biệt là dân làng Xô Man.
– Mang ý nghĩa biểu tượng cho phẩm chất, sức mạnh của con người Tây Nguyên:
- Rừng xà nu đau thương như con người Tây Nguyên đau thương.
- Sức sống mãnh liệt của rừng xà nu tượng trưng cho sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên và rộng ra là cả dân tộc Việt Nam.
- Những cây xà nu không chịu khuất mình trong bóng râm, luôn vươn lên tiếp lấy ánh sáng mặt trời tượng trưng cho khát vọng tự do, tinh thần phóng khoáng, ý chí vươn lên vì lí tưởng cao đẹp của con người Tây Nguyên.
- Cây xà nu nối tiếp nhau vươn lên tượng trưng cho những thế hệ người Tây Nguyên nối tiếp nhau cầm súng đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.
2. Nghệ thuật
a. Nhan đề:
– Các tác phẩm anh hùng ca thường lấy nhân vật trung tâm để làm tên nhan đề và “Rừng xà nu” cũng vậy.
– “Rừng xà nu” mang tính chất gợi mở, biểu tượng cho số phận và cuộc đời của con người Tây Nguyên anh hùng.
* Giọng điệu:
– Câu chuyện được kể qua lời của cụ Mết – một già làng nên có sự uy tín với cộng đồng.
– Kể lại trong một không gian sử thi: ngoài trời mưa rả rích, bên bếp lửa bập bùng.
– Cách kể: lời kể khan của Tây Nguyên, giọng kể: “ồm ồm của cụ Mết” như đang phán truyền lịch sử
=> Đầy thiêng liêng, trang trọng.
b. Kết cấu đầu – cuối tương ứng thường gặp trong các bản anh hùng ca: mở đầu là hình ảnh xà nu, kết thúc cũng là hình ảnh xà nu.
C. Kết bài
– Qua phân tích trên, có thể thấy “Rừng xà nu” chính là bản anh hùng ca của con người Tây Nguyên, và mở rộng ra là cả dân tộc Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
– Nguyễn Trung Thành chính là một nhà văn của mảnh Tây Nguyên khi đã sáng tác thành công truyện ngắn “Rừng xà nu” – tiêu biểu cho chất anh hùng ca.
Xem thêm Chứng minh Rừng xà nu là bản anh hùng ca
Dàn ý chi tiết phân tích nhân vật cụ Mết
I. Mở bài
– Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, với nhiều tác phẩm đặc sắc.
– Rừng xà nu là khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.
– Một trong những nhân vật mang đậm chất sử thi là cụ Mết – đại diện cho thế hệ thứ nhất của người Tây Nguyên.
II. Thân bài
1. Ngoại hình
– Quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải láng bóng”, cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm
– “bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, …mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.
– Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”: vừa thể hiện sức mạnh thể chất vừa thể hiện sức mạnh quyền uy của người chỉ huy.
2. Phẩm chất
– Mỗi câu nói như một chân lí “Không có gì mạnh bằng cây xà nu trên đất ta”, “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”, “Chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”.
– Cụ Mết có tình yêu quê hương sâu sắc:
- Dẫn Tnú ra máng nước đầu làng gội rửa, để nhắc nhở những ai đi xa nhớ về nguồn cội, quê hương.
- Tự hào về tất cả mọi thứ trên quê hương: “Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”.
- Vì muốn bảo vệ quê hương nên luôn tìm hướng đi đúng đắn cho buôn làng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”.
– Là người giàu tình yêu tình yêu thương:
- Hết lòng thương yêu và tin tưởng Tnú – chàng trai trẻ có số phận bi tráng: nồng hậu đón Tnú trở về, xót thương khi nhìn những ngón tay còn hai đốt của Tnú, luôn động viên anh: “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”.
- Xúc động khi kể lại cho dân làng nghe câu chuyện của Tnú, cụ “vụng về trở bàn tay lau một giọt nước mắt”
- Nhận được muối, dù ít ỏi cụ vẫn chia đều cho mọi người trong buôn làng.
– Cụ Mết là người biết nhìn xa trông rộng: Hiểu được đánh Mỹ là phải đánh dài. Dự trữ lương thực đủ ăn để đánh giặc, biết rõ được sức mạnh chưa đủ khi chưa có vũ khí nên không liều mạng xông ra cứu Tnú… Cụ chính là người chỉ đường dẫn lối cho dân làng trong cuộc kháng chiến.
=> Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên, mang dáng vẻ của người anh hùng với sức mạnh phi thường trong sử thi.
III. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp của nhân vật cụ Mết. Cảm nhận chung về nhân vật này.
Xem thêm Phân tích nhân vật cụ Mết trong Rừng xà nu
Dàn ý phân tích hình ảnh đôi bàn tay Tnú
I. Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm: Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với Tây Nguyên, có nhiều tác phẩm thành công viết về mảnh đất này. Rừng xà nu là câu chuyện về cuộc đời Tnú tiêu biểu cho số phận và con đường đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì chống Mĩ, giải phóng miền Nam.
– Giới thiệu về chi tiết đôi bàn tay Tnú: Hình ảnh bàn tay Tnú là chi tiết ấn tượng nhất, thể hiện rõ nhất con người Tnú.
II. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm
– Hoàn cảnh ra đời: Truyện ngắn Rừng xà nu được viết năm 1965 in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
– Giá trị nội dung: Thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đặt vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với dân tộc và thời đại: “Để cho sự sống của nhân dân và đất nước mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác”.
2. Ý nghĩa đôi bàn tay Tnú
– Đó là đôi bàn tay của người chiến sĩ rất đỗi trung thành, thủy chung với cách mạng:
- Đó là đôi bàn tay chú bé mồ côi nắm lấy tay cô bé Mai chăm chỉ chặt củi, xách nước, lên rẫy trồng tỉa, xách xà lét giấu gạo đi nuôi cán bộ Quyết.
- Đôi bàn tay cầm viên phấn bằng đá trắng lấy từ núi Ngọc Linh về tập viết chữ, mở dần cánh cửa cuộc đời để đến với cách mạng.
- Đôi bàn tay đã dũng cảm mang công văn đi làm liên lạc vì căm thù thằng giặc vô ngần.
- Bọn giặc bắt được Tnú, tra tấn dã man, hỏi cộng sản ở đâu, Tnú đặt tay lên bụng mình và nói: “Ở đây này”.
=> Bàn tay Tnú chỉ rõ và khẳng định lí tưởng cách mạng không ở đâu xa mà ở ngay trong tâm hồn mình. Đây chính là nét đẹp thứ nhất của bàn tay Tnú: bàn tay của sự tín nghĩa, thủy chung.
– Đó là đôi bàn tay của nghĩa tình:
- Bàn tay không ngần ngại xé tấm vải che cho mẹ con Mai, vốc nước suối, cảm nhận cái tình quê hương.
- Bàn tay cũng đã được Mai nắm chặt mà khóc những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương, đồng cảm khi Tnú vượt ngục trở về.
- Lửa hận dâng lên ngút ngàn, đốt cháy tâm can Tnú, truyền từ đôi tay lên đôi mắt “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”.
- Mỗi ngón tay anh như nóng bỏng lên bởi tình thương, nỗi lo và sự căm hờn.
- “Hai cánh tay như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”.
- Mười ngón tay nóng bỏng lửa căm thù, thương xót đã truyền sức mạnh vào hai cánh tay nhưng mà “Tnú chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí”.
– Đôi bàn tay là hiện thân của mất mát đau thương, ghi lại chứng tích tội ác mà kẻ thù đã gây ra:
- Mười đầu ngón tay Tnú đều cụt một đốt.
- Mẹ con Mai chết còn Tnú thì bị giặc bắt tra tấn, bị bọn thằng Dục tàn nhẫn tẩm dầu xà nu vào giẻ rồi quấn giẻ lên mười đầu ngón tay anh, đốt cháy rừng rực.
- Cuối cùng, đó là bàn tay cầm vũ khí chiến thắng kẻ thù, đôi bàn tay của ý chí quật cường, tinh thần dũng cảm, bất khuất của người cộng sản:
- Mỗi ngón tay anh như nóng bỏng lên bởi tình thương, và sự căm hờn.
- “Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc” nhưng “Tnú không thèm, không thèm kêu van”.
- Đôi bàn tay với ngón tay chỉ còn lại hai đốt vẫn có thể cầm giáo, cầm súng để lên đường chiến đấu
- “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”: Chân lí chứng minh tầm quan trọng của vũ khí, không thể không cầm vũ khí, nhưng cũng không nên ỷ lại vào vũ khí, cái quyết định cuối cùng vẫn là đôi bàn tay con người.
- Tnú dùng hai bàn tay không, cụt đốt, đôi bàn tay quả báo để siết cổ tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú.
=> Ngọn lửa của âm mưu thâm độc, của tội ác dã man đã không đốt cháy được chất vàng mười trung thành, bất khuất của người chiến sĩ trẻ tuổi Tây Nguyên.
III. Kết bài
Khẳng định lại ý nghĩa của đôi bàn tay Tnú. Cảm nhận chung về tác phẩm Rừng xà nu.
Xem thêm Phân tích hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu
Dàn ý tính sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành, tác phẩm Rừng xà nu và giới thiệu nội dung cần phân tích: chất sử thi của tác phẩm.
II. Thân bài
1.Khái niệm sử thi
– Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu, những sự kiện có tính chất toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc (như anh hùng Rama trong Sử thi Ramayana; Hector trong sử thi Iliat, Ôđixê của Hy Lạp… Ở Việt Nam có người anh hùng Đăm Săn trong Bài ca Đăm Săn của người Ê-đê)
– Mỗi bộ sử thi chính là niềm tự hào to lớn của dân tộc đó. Sử thi thời cổ đại là thể loại một đi không trở lại. Nền văn học hiện nay không còn thể loại sử thi nữa nhưng cái không khí, tính chất của sử thi vẫn được người cầm bút mang vào trong các sáng tác. Và chất sử thi đã làm nên giá trị, làm nên sức sống cho từng trang viết, làm sống lại không khí hùng tráng của một thời đại anh hùng. Một số truyện ngắn tiêu biểu minh họa cho sự tồn tại của nền văn học sử thi trong Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 như: Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, Người mẹ cầm súng của nhà văn Nguyễn Thi, truyện ngắn Rừng xà nu, tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyễn Trung Thành, tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức…
2. Hoàn cảnh sử thi
Truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập truyện ngắn Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.Tác phẩm được viết vào năm 1965. Đây là thời điểm Mỹ đổ quân tham chiến ở miền Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam ở vào hồi quyết liệt: giặc Mỹ điên cuồng đánh phá Cách mạng miền Nam. Trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân (từ miền ngược đến miền xuôi) càng kiên cường và bất khuất “Họ đã xuống đường và đem cả lương tâm và nhân phẩm bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai).
3. Chất sử thi thể hiện trong tác phẩm Rừng xà nu
a. Chất sử thi được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ , tráng lệ vừa đậm chất thơ của núi rừng Tây Nguyên
– Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết thúc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta.
– Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trưng, so sánh, bi tráng hóa… nhà văn đã dựng nên bức tranh rừng xà nu ở nhiều góc độ:
- Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát do bom đạn của kẻ thù gây ra.
- Sức sống mãnh liệt của cây xà nu không bom đạn nào có thể khuất phục được (So sánh với sức sống của con người Xô Man)
- Cây xà nu ham ánh sáng, yêu tự do, luôn vươn lên đón ánh nắng và khí trời.
- Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho cả dân làng”.
b. Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xô Man
– Cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình, anh đã biến đau thương thành hành động trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước.
– Tnú và chặng đường đầu của cách mạng (Nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc, bị giặc bắt)
– Vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc.
– Cùng một lúc phải hứng chịu hai tấn bi kịch do tội ác của giặc gây ra (vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị giặc đốt cụt mười đầu ngón tay)
– Hình tượng đôi bàn tay Tnú (đôi tay cần cù lao động, đôi tay chứng nhân tội ác kẻ thù, đôi tay chưa bao giờ biết phản bội…)
c. Tính cộng đồng trong tác phẩm
– Bên cạnh việc miêu tả, làm nổi bật lên hình ảnh của người anh hùng Tnú, người ta còn thấy được hình ảnh của những con người khác xung quanh nhân vật này, những người gan dạ dũng cảm trong cộng đồng làng Xô Man. Mỗi con người là một sức mạnh, mỗi ngọn giáo đứng lên là thể hiện một lòng căm thù. Sức sống mãnh liệt đó được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ các cụ già đến những em bé còn ngây thơ nhưng đã có ý thức về nỗi đau mất nước, mất người thân, mất chủ quyền dân tộc. Tính chất cộng đồng được thể hiện trong tác phẩm rất rõ:
– Đó là hình ảnh sum vầy, quây quần bên nhau, nương tựa vào nhau “cơm nước xong từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài ba tiếng , dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết”. Tất cả mọi người từ các cụ già các cô gái, những đứa trẻ đoàn tụ bên nhau để nghe câu chuyện cuộc đời Tnú.
– Vẻ đẹp của các thể hệ người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
d. Nghệ thuật trong truyện ngắn Rừng xà nu
– Hình thức kể chuyện với cách tạo không khí truyện rất Tây Nguyên đậm đà màu sắc sử thi truyền thống. Bao trùm lên toàn bộ thiên truyện là một khung cảnh nghiêm trang, hào khí lại vừa mang đậm chất lãng mạn cuốn hút về làng Xô man bất khuất kiên cường.
– Giọng văn trong Rừng Xà Nu là giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoành tráng của tác phẩm.
– Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu chuyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu chuyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.
– Biện pháp nhân cách hóa, miêu tả cây xà nu như con người Xô Man. Vì vậy cây xà nu hiện ra như một nhân vật của câu chuyện. Nguyễn Trung Thành đã biến rừng xà nu thành cả một hệ thống hình ảnh được miêu tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật.
– Sử dụng kiểu thời gian gấp khúc “đau thương nuôi con người vụt lớn lên” (Tnú ngày bị bắt mới chỉ đứng ngang bụng cụ Mết, ba năm sau trở về đã là chàng thanh niên lực lưỡng; Dít ngày Tnus đi còn bé, ba năm sau anh trở về Dít đã là bí thư chi bộ)
III. Kết bài
Khẳng định vẻ đẹp sử thi của tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành.
Xem thêm Phân tích tính sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Tổng hợp dàn ý bài Rừng xà nu (7 mẫu) Dàn ý Rừng xà nu của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.