Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà mang đến 13 bài văn mẫu hay nhất kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua phân tích con sông Đà hung bạo giúp các bạn học sinh có thêm nhiều gợi ý học tập, trau dồi vốn từ củng cố kỹ năng viết văn phân tích ngày một tốt hơn.
TOP 13 mẫu vẻ đẹp hung bạo của sông Đà siêu hay dưới đây của Pgdphurieng.edu.vn sẽ là tư liệu hữu ích, giúp các bạn học sinh tự tin không phải lo nghĩ quá nhiều về việc làm sao để viết được bài văn phân tích hay. Các bạn hãy vận dụng thật tốt 13 bài văn về sông Đà hung bạo một cách linh hoạt, dùng cách diễn đạt của mình để bài văn trở nên đầy đủ, hay nhất nhé. Ngoài ra các bạn xem thêm phân tích Người lái đò sông Đà.
TOP 13 mẫu phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
- Dàn ý vẻ đẹp hung bạo con Sông Đà (3 Mẫu)
- Sơ đồ tư duy hình tượng sông Đà
- Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà hay nhất (5 Mẫu)
- Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà (4 Mẫu)
- Phân tích con sông Đà hung bạo (4 Mẫu)
Dàn ý vẻ đẹp hung bạo con Sông Đà
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Dẫn dắt vấn đề
2. Thân bài
– Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông …”.
– Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”
– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô …mượn cạp ngoài bờ vực”,
– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
- Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
- Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
- Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.
– Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
3. Kết bài
– Khái quát lại vấn đề
Sơ đồ tư duy hình tượng sông Đà
Mẫu 1
Mẫu 2
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà hay nhất
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 1
Nguyễn Tuân nổi tiếng là nhà văn tài hoa với nét văn độc đáo. Ông thích miêu tả những gì dữ dội, mãnh liệt của thiên nhiên, con người. Thế nên trong các tác phẩm của ông ta thấy được sự hùng vĩ hiếm có của thiên nhiên. “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân. Đây là một đoạn trích hay nằm trong Tùy bút sông Đà viết năm 1960. Người lái đò sông Đà chính là thành quả của chuyến đi thực tế đến Tây Bắc của tác giả. Trong đoạn trích, tác giả tìm kiếm “chất vàng mười” của thiên nhiên và của những con người lao động trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ.
Nguyễn Tuân gặp sông Đà trong chuyến công tác Tây Bắc. Con sông hiện lên trước mắt ông là một sự kỳ vĩ của thiên nhiên. Vậy nên, mới gặp sông Đà thôi nhưng cứ như người bạn tri kỷ lâu năm. Sông Đà trong mắt Nguyễn Tuân là một con sông nguyên sơ và đầy cá tính. Thế nên, mở đầu đoạn trích, tác giả nhắc tới sông Đà bằng hai câu thơ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”.
Ở “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã dành hết bút mực để miêu tả sông Đà đoạn thượng nguồn. Với riêng tác giả, đó là nơi con sông Đà có vẻ đẹp hung bạo nhất, nghiệt ngã nhưng cũng đầy thử thách. Sự dữ dội của sông Đà được tác giả sử dụng những từ ngữ có tiết tấu nhanh, mạnh để miêu tả. Dòng sông ấy không chỉ có thác đá, mà còn dữ dội trên chính những vách đá dựng thẳng đứng, hiểm trở “đá bờ sông dựng vách thành”
Để làm nổi bật thêm sự hùng vĩ của dòng sông, tác giả còn miêu tả tỉ mỉ lòng sông khúc ấy. Lòng sông như bị bóp nghẹt “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. Không chỉ dừng lại ở đó, “đứng bên này bờ nhẹ tay nắm hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”.
Diễn tả bằng những hình ảnh thực tế của sông Đà chưa đủ, tác giả còn miêu tả chi tiết cảm nhận của những người ngồi trên khoang đò quãng sông ấy “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Dường như những vách đá dựng đứng làm lòng sông nhỏ bé đến mức chỉ thấy được một khoảng trời nhỏ xíu. Sự so sánh của Nguyễn Tuân chính xác đến từng chi tiết. Dường như ông lục lọi đến tận cùng kiệt của dòng sông để “show” ra cho người ta phải kinh động hồn trí.
Sự hoang sơ, hung bạo của dòng sông Đà còn được tác giả đặc tả thông qua tiếng gió thổi. Tiếng gió trên sông Đà như tiếng gầm rú của thiên nhiên, nó mang đến cho con người cảm giác rùng mình, man rợ. Nguyễn Tuân đã khéo léo khi đặc tả “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới có thể miêu tả dòng sông một các đặc sắc như vậy. Câu văn diễn đạt theo móc xích với cấu trúc trùng điệp càng làm gợi lên hình ảnh con sông Đà đang lúc cuồng nộ, dữ dằn, chỉ chực “lật ngửa bụng thuyền ra”.
Ngay cả những hút nước trên sông Đà cũng thật đặc biệt. “những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Những cái hút nước được Nguyễn Tuân hình tượng hóa trở nên man rợ hơn. Đến mức “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”.
Dường như ở đây không phải là hình ảnh sông Đà mà là hình ảnh của một loài thủy quái nào đó đang muốn uy hiếp con người. Thế nên “không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy”. Dường như hút nước ở sông Đà trở thành nỗi ám ảnh với những người lái thuyền, họ chỉ muốn tránh mặt chứ không muốn chạm trán với nó. Bởi nếu không “chèo nhanh để lướt qua quãng sông” sẽ “bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
Sự hung bạo của sông Đà càng được làm rõ hơn thông qua âm thanh của thác nước. Nó giống như tiếng gầm vang của con sông nơi thượng nguồn, nó ám ảnh cả vào tâm trí những người đi thuyền qua đây. Thế nên còn xa lắm mới đến thác nhưng “đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Có ai miêu tả tiếng thác nước như Nguyễn Tuân, chân thực đến ghê sợ với những thủ pháp so sánh độc đáo.
Nghe tiếng gầm vang của dòng sông ta như liên tưởng tới tiếng trách than, ai oán của con người. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Dường như Nguyễn Tuân đã nhân cách hóa dòng sông, giờ đây con sông Đà có cảm xúc như chính con người vậy.
Chỉ phút trước còn nỉ non, ai oán, phút sau tiếng thác đã được phóng to hết cỡ, như một sự phấn khích đến man dại, “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn tâu da cháy bùng bùng”. Chỉ vài câu văn thôi nhưng mọi sự hung bạo đến ghê người được lột tả hết. Nhưng cũng qua đó ta mới thấy được sự tinh tế của Nguyễn Tuân. Sự liên tưởng của ông có lẽ chẳng ai bì kịp, có ai lại đi lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông. Thế mới thấy phải có tâm hồn nghệ thuật ngông lắm mới dám làm vậy.
Nói đến sự dữ dội, nghiệt ngã của sông Đà không thể không nhắc tới những bãi đá. Dường như khi miêu tả những bãi đá vô tri trên đoạn thác sông Đà, Nguyễn Tuân đã sử dụng thủ pháp nhân hóa khiến người đọc như nhận ra ông đang miêu tả con người chứ không phải một vật vô tri. Từng thớ đá được Nguyễn Tuân thổi hồn vào trở nên có hình hài, cá tính. “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.” Đá ở dòng sông Đà như một lớp mai phục chỉ chực chờ thuyền đến để “nhổm” lên “vồ” lấy thuyền.
Cá tính của những thớ đá cũng được khắc họa rõ nét “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Nguyễn Tuân đã sử dụng những tính từ miêu tả tính cách, ngoại hình con người để miêu tả cho chính những hòn đá nơi đây. Mỗi hòn đá xuất hiện trên dòng sông Đà này đều có một nhiệm vụ riêng “trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã bàn giao việc cho mỗi hòn”.
Qua cái nhìn tinh tế của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá đều mang vẻ gì đó rất du côn của thiên nhiên hoang dại. Trùng vi thạch trận của những phiến đá bày ra như được ai đó điều khiển từ xa khiến con người càng thêm khiếp sợ. Miêu tả đá mà Nguyễn Tuân dùng những từ ngữ như “hai đứa” làm người ta liên tưởng đến sự bày binh bố trận trong một cuộc chiến. Thế rồi, hòn đá khác còn “hất hàm hỏi cái thuyền”, rồi “thách thức” như muốn tuyên chiến với thuyền.
Hưởng ứng trùng vi thạch trận đá, “mặt nước hò la vang dậy quanh mình” chỉ cần tay lái yếu là sẽ bị trận địa đá ấy nuốt chửng. Sự hung tợn của trận địa đá ở sông Đà đến ông lái đò vốn đã dạn dĩ cũng phải gồng mình mới vượt qua được. Ấy thế nhưng dòng sông ấy không chỉ có một vòng vây, “nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh. Cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Nguyễn Tuân đã miêu tả việc vượt qua thác sông Đà như cưỡi hổ. Vì thế muốn vượt qua được trận địa ấy “phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Chỉ cần “nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng rồi, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh”. Đó là ông lái đò phải kinh nghiệm lắm mới nắm được những quy luật trận địa mà sông Đà đã tạo ra.
Dường như sông Đà đoạn thượng nguồn ấy muốn “nuốt chửng” bất cứ con đò nào đi ngang qua đây. Ngay cả khi gần đi đến cửa sinh “bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Nguyễn Tuân đặc tả một cách rõ nét khuôn mặt của những bãi đá ở sông Đà “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy”.
Vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà có lẽ chẳng thể nào quên. Dù đôi lúc nó cuồng nộ, giận dữ như những con quái vật sông, nó mang cho người ta cảm giác ghê rợn. Nhưng đó là một vẻ đẹp cực kỳ hào hùng, kiêu hãnh. Và cũng chỉ có ngòi bút của Nguyễn Tuân mới lột tả hết được cái vẻ đẹp kiêu sa, hùng vĩ đó.
Bằng cái nhìn chân thực, ngôn từ tinh tế, chắt lọc, Nguyễn Tuân đã phần nào cho người đọc thấy sự cuốn hút mà con sông Đà mang đến. Đọc những dòng tùy bút của tác giả về sông Đà giống như ta được trực tiếp ở đó, cảm nhận sự hung bạo đến đáng sợ của nó. Chính sự hung bạo, gầm gừ của dòng sông là điều đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Có lẽ Nguyễn Tuân thực sự đã tìm được thứ “vàng mười” mà ông ngày đêm theo đuổi.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 2
Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu và vang danh bao nhà văn, nhà thơ tài năng. Một trong số đó phải kể đến Nguyễn Tuân – một cây bút tài hoa với những sáng tác nổi bật. Ông được coi là một trong những nhà văn thành công nhất ở mảng tùy bút. Tiêu biểu trong những sáng tác của ông phải kể đến là tùy bút Người lái đò Sông Đà. Con sông Đà hiện lên với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội gây ấn tượng sâu sắc với bạn đọc.
Dữ dội của sông Đà không phải chỉ có thác đá mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng vách thành hiềm trở, có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia. Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận quãng sông này. Không chỉ mặt nước mà cảnh vật cũng vô cùng hiểm trở, sẵn sàng lấy đi tính mạng của người khác.
“Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà… Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Sự nguy hiểm của sông Đà dài hàng cây số tít tắt cuồn cuộn, có thể đánh gục cả con thuyền và người lái đò. Nguyễn Tuân đã sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.
Đoạn tà Mường Vát trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống. Nhiều biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo được tác giả sử dụng để gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.
Có thể thấy, vẻ hung bạo, dữ tợn này khiến cho người khác phải e sợ nhưng nó lại là một nét nổi bật làm cho người ta nhớ đến sông Đà hơn bất kì thứ gì hết. Nhiều năm tháng qua đi nhưng vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn của dòng sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng như vẻ đẹp của sông Đà nói chung vẫn còn nguyên vẹn và sống mãi trong lòng bạn đọc với một dấu ấn riêng biệt không gì sánh bằng.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 3
Trong tập tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh động, hấp dẫn của vùng núi rừng vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa tuyệt vời thơ mộng ở phía Tây Bắc của Tổ quốc. Dưới ngòi bút của nhà văn, miền đất này hiện lên thật tươi đẹp với những núi xa, núi gần miên man như trùng vi thạch trận, với những thung lũng vàng một màu lúa chín, với bao nhiêu loài hoa tỏa hương sắc…Nhưng tiêu biểu nhất, được nhà văn tập trung bút lực mô tả công phu nhất, phải kể đến hình ảnh con sông Đà hùng vĩ vừa hung bạo vừa nên thơ trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức tạp. Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Cái hung bạo của sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay phim lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh sông Đà, thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của con sông này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành, chỉ khi nào đến giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có ánh nắng. Cách so sánh trên tạo được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Vì thế, dòng chảy của con sông bị thu lại rất hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; hẹp đến mức có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ấn tượng về độ cao và thẳng của vách đá bờ sông và dòng chảy nhỏ hẹp càng được tô đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và lối liên tưởng bất ngờ, thiên nhiên hoang sơ gần với đời sống hiện đại của con người: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà… ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác, mà còn kết hợp sử dụng các giác quan khác với những so sánh thật mới mẻ và táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trở, hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với sự hợp sức của gió, của sóng và của đá. Dường như chúng phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy. Ở đây, một phần câu vãn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bỗng điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ọc ọc ghê sợ. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”, ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới đây thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý… ở khuỷnh sông dưới.
Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mang, đặc biệt đối với những ai xuôi dòng, ở những nơi này, sông Đà được mô tả như có cả một bầy thuỷ quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo; khi thì hò la, gầm thét, như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công phá, nhân thêm mối nguy hiểm đối với nhà đò vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục ở nơi đây để bày thạch trận trong lòng sông.
Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhỏ vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Tác giả đã dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri giác, khiến người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng. Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của sông Đà đã hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đấy chính là tiềm năng to lớn của Đà giang khi nó được con người chinh phục. Đấy là “vàng trắng” quý báu của đất nước chúng ta. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân nghĩ tới hình ảnh của những tuốc bin thủy điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của sông Đà trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Tóm lại, bằng một tình yêu thiên nhiên đất nước thiết tha, bằng tài năng của một nghệ sĩ ngôn từ đích thực, đến Nguyễn Tuân, có lẽ lần đầu tiên con sông Đà của Tổ quốc đã bước vào văn học với vẻ dữ dội, hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng chứa chan thơ mộng, trữ tình của nó. Thì ra, với tác giả Người lái đò sông Đà, thiên nhiên cũng chính là một sản phẩm nghệ thuật vô giá, thiên nhiên luôn làm cho con người bị hấp dẫn, mê say.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 4
Nguyễn Tuân là một nhà văn với lối viết truyện rất độc đáo và uyên bác, là một nhà văn rất tài hoa của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông, được lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân tới miền Tây Bắc của Tổ quốc, khi mà sông Đà chuẩn bị trở thành “dòng sông ánh sáng”. Hình tượng con sông Đà qua con mắt nhìn của nhà văn không chỉ mang một vẻ đẹp trữ tình mà còn mang tính cách đầy hung bạo, dữ dội vô cùng.
Sông Đà là dòng sông nằm ở phía Tây bắc, nơi mà mọi con sông đổ về phía Đông còn riêng sông Đà lại đổ ngược lên hướng Bắc:
“Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu”
Nó chảy xuyên suốt những cánh rừng lớn, giữa những dãy núi cao vút, vậy nên, sông Đà mang trong mình sự hung bạo, dữ dội với những thác ghềnh, xoáy hút kinh người. Nó giống như một thực thể sống với những tính cách và tâm trạng riêng của mình.
Tính cách hung bạo của dòng Đà giang đầu tiên phải kể tới là nơi vách đá bờ sông dựng vách thành. Đây là nơi mà dòng chảy của Đà giang tách đôi dãy núi mở đường tiêng. Vậy nên, hai bên dòng sông là hai vách núi đã dựng đứng, đẹp hùng vĩ nhưng cũng hiểm trở vô cùng. Nhà văn đã so sánh vách đá chẹt dòng sông như cái một “yết hầu” làm cho chúng ta liên tưởng mà thấy được độ hẹp cũng như sự dữ dội hiểm trở của khúc sông Đà nơi ấy. Mặt sông hẹp đã khiến “đúng giờ ngọ mới có mặt trời”, tức là đúng giữa trưa, khi mặt trời đứng bóng mới có thể thấy được mặt trời ở nơi đây.
Thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn dùng hình ảnh “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” để miêu tả độ hẹp đầy nguy hiểm của dòng Đà Giang. Tuy thế nhưng điều đó lại khiến cho Đà giang có một vẻ đẹp kì vĩ vô cùng. Nguyễn Tuân đã sử dụng một sự liên tưởng rất độc đáo để miêu tả về độ nguy hiểm của dòng sông Đà, đó là “ngồi trong khoang đò mà qua chỗ ấy” giống như “đứng trong một cái ngõ hẻm” mà ngóng vọng “lên một khung cửa sổ nào đó vừa tắt phụt đèn điện”. Sông Đà khi ấy vừa mang cái bóng tối thăm thẳm lại vừa thấy sâu hun hút, cao vời vợi, khiến con người không khỏi cảm thấy rợn ngợp “mùa hè mà cũng thấy lạnh”.
Thế nhưng, sông Đà đâu chỉ có một khúc hẹp nguy hiểm nhường ấy, sự hung bạo còn đến ở nơi mặt ghềnh Hát Loóng. Ghềnh là nơi mặt sông đột ngột nâng cao lên mặt nước khiến cho mục nước tại nơi đó cạn hơn so với những chỗ khác. Và con sông Đà thì có vô số ghềnh đá như vậy. Thế nên “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Một câu văn chứa đầy giá trị tạo hình và nghệ thuật miêu tả! Nguyễn Tuân đã dựng lên hình ảnh một sông Đà đẹp hùng vĩ mà cũng hoang vu, dữ dội, hung bạo vô cùng. Một khúc sông mà chỉ có ba thế lực “đá, sóng, gió” ngự trị, gầm ghè, so kè với nhau. Điệp từ “xô” trong câu văn cũng khắc hoạ một sự hung bạo, ầm ào của những sóng, những đá, những gió nơi mặt ghềnh này. Gió ở nơi đây cũng không còn là thế lực vô hình, bơi nó “cuồn cuộn từng luồng”, và còn “gùn ghè” đầy đe doạ nữa.
Trôi tiếp trên dòng sông Đà, người ta vẫn thấy được sự hung bạo trong tính cách của nó khi bắt gặp cái hút xoáy ở quãng Tà Mường. Đây là nơi mà người ta có thể chứng kiến được sự hung bạo đến khủng khiếp của một cái hút xoáy giống như “cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Cái hút xoáy vừa to vừa sâu, thậm chí còn “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”. Sự nhân hoá tài hoa của Nguyễn Tuân khiến cho cái hút xoáy ở Tà Mường như một con thuỷ quái khổng lồ từ thời xa xưa. Và thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn tô đậm tính cách hung bạo của Đà giang của nghệ thuật cường điệu. Những bè gỗ rừng trôi trên mặt sông “nghênh ngang” “đi qua” cái hút xoáy đó liền bị “lôi tuột xuống” với một sức mạnh to lớn và khủng khiếp vô cùng. Con thuyền thì nhỏ bé, chỉ biết men qua, thế nhưng cũng ngay lập tức bị “trồng cây chuối ngược”, biến mất dưới lòng sông, bị đánh cho tả tơi, khi nổi lên thì chỉ thấy tan tác. Cái hút xoáy hung bạo là thế nhưng lúc xuân về lại mang một vẻ đẹp vô ngần. Nó khiến cho người nghệ sĩ quay phim không thể chối từ, bất chấp cả sự nguy hiểm đến tính mạng.
Thế nhưng nơi phô bày tất cả sự hung bạo của sông Đà phải nói tới thác đá của sông Đà. Đó là nơi phô diễn một vẻ đẹp kì vĩ mà cũng không kém phần dữ dội.Sông Đà với 73 con thác lớn nhỏ nhưng Nguyễn Tuân chỉ chọn một dòng thác để miêu tả. Bằng kiến thức uyên bác, Nguyễn Tuân đã dựng lên hình ảnh của thác đá sông Đà đầy ấn tượng.
Nguyễn Tuân đã miêu tả hình ảnh của thác đá từ xa tới gần, từ âm thanh tới hình ảnh “còn xa lắm mới đến cái thác dưới” nhưng âm thành tiếng nước va vào đã đã khiến người ta phải rợn người. Nó “réo gần mãi lại réo to mãi lên” như tiếng người trong cơn giận dữ”giọng gằn và chế nhạo”. Tới gần thì âm thanh đó biến thành tiếng “rống”, tiếng gầm thét của hàng ngàn con trâu mộng đang trong cơn tuyệt vọng giữa rừng lửa và đàn trâu “da cháy bùng bùng”. Tiếng trâu đau đớn rống lên trong tuyệt vọng, tiếng lửa cháy ào ào với sức mạnh man dại nhất chính là thứ âm thanh mà thác đá của sông Đà đang vang lên. Có thể thấy, sự dữ dội và hung bạo của dòng sông Đà quả thực vô cùng khủng khiếp.
Thác đá sông Đà hiện lên trước mắt du khách là một vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ với “sóng bọt đã trắng xóa cả chân trời đá”. Cả một khúc sông mênh mông , rộng lớn mà chỉ có hai thế lực ngự trị là sóng thác và đá thác. Tất cả đang gầm thét, tung bọt trắng xóa đất trời. Với con mắt của một nhà quân sự, Nguyễn Tuân như thấy sông Đà đang “dàn bày thạch trận trên sông”. Mỗi viên đá trên sông trở thành một lính đá, tướng đá “mặt máy ngỗ ngược”, “bệ vệ oai phong lẫm liệt”. Không chỉ vậy, đá trên sông Đà dường như nắm được cả binh pháp, chúng dựng lên trận địa đá “làm ke chìm, pháo đài nổi” vô cùng nguy hiểm với la liệt những cửa tử cửa sinh. Đá trên sông Đà với tâm thế của “thứ kẻ thù số một của con người” nên chúng đã nham hiểm mà bố trí những cửa sinh cửa tử lắt léo. Vòng vây thứ nhất với “bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm ở tả ngạn sông”, vòng hai thì cửa sinh lại lệch sang bờ “hữu ngạn”. Vòng thứ ba thì hiểm nguy hơn, cửa sinh năm ở “giữa những luồng nước chết”. Chúng còn đánh lừa con thuyền bằng cách tạo ra một của đá “trông như là sơ hở” để con thuyền đi vào rồi mới đánh úp nó.
Bằng con mắt của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên một thác đá sông Đà sống động như những sinh vật có tâm địa nham hiểm, luôn rình rập con người. Tính cách của chúng hung bạo và dữ dội nhất cả dòng sông. Dòng thác sông Đà thì như một con quái vật khổng lồ mà người lái đò buộc phải vật lộn với sự hung bạo của nó. Những con sóng như ” quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền” hay “bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò” để đánh “hồi hùng, đòn tỉa, đòn âm”. Nguyễn Tuân đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá và dày đặc những thuật ngữ võ thuật kết hợp với nghệ thuật miêu tả, kể chuyện đặc sắc đã đem đến cho người đọc cảm nhận về thế giới thiên nhiên đầy hung bạo của con sông Đà.
Con sông Đà là “khởi nguồn của ánh sáng”, mang những vẻ đẹp dịu dàng, êm ả, thế nhưng, cũng có lúc nó trở mình với tính cách hung bạo và dữ dội khủng khiếp vô cùng. Qua từng dòng chữ của mình, Nguyễn Tuân đã tái hiện một sông Đà với tính cách hung bạo thế nhưng lại vô cùng kì vĩ, một vẻ đẹp mà hiếm dòng sông nào ở Việt Nam có thể sánh bằng.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà – Mẫu 5
“Người lái đò sông Đà” – một thiên tùy bút của Nguyễn Tuân viết về sông Đà và người lao động bình dị mang trong mình “chất vàng mười”, ta nhận ra Nguyễn Tuân không chỉ muốn xê dịch để khuây khỏa cảm giác “vắng quê hương” mà đã có khao khát được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời. Nguyễn Tuân đã bằng tình yêu và sự tài hoa của mình không chỉ phát hiện ra tính chất hung bạo của dòng sông khi ở thượng nguồn mà còn làm nổi bật tài trí, sức mạnh của người lái đò.
Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Tuân nói nhiều đến sự “hung bạo” ở thượng nguồn con sông Đà đầy đá nổi, đá chìm và thác dữ. Tuy nhiên ông vẫn làm cho chúng ta nhận thấy một điều rằng: bên trong sự hung bạo ấy là vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước. Sông Đà dữ dội và hung bạo trước hết ở cảnh hai bên bờ có những “vách đá dựng đứng” làm cho lòng sông hẹp hẳn đi, khoảng cách giữa hai bờ bị thu nhỏ lại và lòng sông chỗ ấy phải lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời, hẳn là một nơi thiếu ánh sáng. Đi đò qua quãng ấy đang là mùa hè cũng cảm thấy lạnh cho thấy nơi ấy thiếu cả hơi ấm, lòng sông chỗ ấy như chảy trong hang đá. Sông Đà hung bạo còn ở cảnh mặt ghềnh Hát Loóng “Dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Mặt ghềnh được tạo bởi đá ngầm suốt chiều dài hàng cây số, nước – đá – sóng – gió cứ xô lẫn nhau. Nhà văn sử dụng câu văn có cấu trúc trùng điệp để mô tả cảnh mặt ghềnh với dòng nước dữ tợn xô vào đá ầm ào suốt đêm ngày. Hình ảnh “cái hút nước” đã tô đậm tính hung bạo của con sông, bằng cách miêu tả sự nguy hiểm của hút nước sông Đà ở cả bề mặt và bề sâu. Bề mặt hút nước sông Đà nhà văn đã dùng những hình ảnh so sánh, ví “cái hút nước” như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu và “nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Với những hình ảnh so sánh đó ta hình dung bề mặt hút nước rất rộng, lưu lượng nước và sức hút là rất lớn, bất cứ con thuyền nào vô ý nghênh ngang qua đó không biết lướt qua cho nhanh thì sẽ bị cái hút nước lôi tuột xuống và làm cho tan xác.
Ở bề sâu, tác giả sử dụng kiến thức ở lĩnh vực điện ảnh, nhà văn mượn cảm giác của một nhà quay phim táo tợn vì muốn truyền cảm giác mạnh cho người xem nên đã dũng cảm cầm máy quay ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền, cả người, cả máy xuống đáy cái hút nước sông Đà, rồi từ đáy cái hút nước nhà quay phim mới lia ngược cái ống kính lên để thu hình. Lúc này chiếc thuyền bị hút nước làm cho xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, nhà quay phim đã truyền cảm giác mạnh ấy cho người xem khiến người xem ngỡ rằng chính bản thân mình đang ở đáy hút nước sông Đà, đang bị cuốn vào vòng xoáy tít của dòng nước mà hoảng sợ tới mức chỉ còn biết giữ chặt lấy mép ghế mà phó mặc cho số phận mình cho dòng nước xoáy. Để tô đậm biểu hiện hung bạo của sông Đà ở tiếng thác nước, nhà văn đã dùng cả cách nói nhân hóa và cách nói so sánh. Câu văn nhân hóa “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Ở đây nhà văn đã gắn cho sông Đà những trạng thái bất thường, “oán trách” là sự hờn giận, trách cứ đầy ai oán, “van xin” là thái độ năn nỉ, cầu xin một cách tha thiết như kẻ có lỗi, “khiêu khích” và “chế nhạo” lại là sự thách thức đầy nhạo báng. Những trạng thái rất thất thường hay chính là tô đậm những diễn biến khó lường của thiên nhiên bí ẩn. Nhà văn so sánh tiếng thác như “tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nhà văn muốn mượn tính chất của một mớ âm thanh hỗn độn để miêu tả độ mạnh của tiếng thác nước sông Đà, âm thanh ấy như tiếng gầm thét của tự nhiên hoang dại. Như vậy qua câu văn nhân hóa và câu văn so sánh, nhà văn muốn tô đậm hình ảnh một con sông không chỉ có tâm trạng mà còn có cả tính cách dữ dằn, ở đó tiềm ẩn những diễn biến khó lường của thiên nhiên hoang dã. Tiêu biểu nhất cho tính hung bạo của sông đà chính là dàn thạch trận trên sông. Ở đây nhà văn kết hợp giữa những câu văn nhân hóa với những kiến thức quân sự, thể thao để làm rõ âm mưu, tâm địa của con sông khi nó chủ động bày binh bố trận để tiêu diệt con người. Nguyễn Tuân cho rằng, đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, “mai phục” là chủ động ẩn nấp để đón đánh đối phương và mỗi khi thoáng nhìn thấy đối thủ, đá trên sông Đà đã nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền, tô đậm tính hiếu chiến của sông Đà. Ngoài ra giàn thạch trận trên sông, mỗi dàn lại có nhiệm vụ khác nhau: hàng tiền vệ có nhiệm vụ canh cửa giả là sơ hở để dụ dỗ đối phương, hàng trung vệ có nhiệm vụ đánh khuýp quật vu hồi – nghĩa là đánh bất thần trở lại khiến đối phương không kịp trở tay, tuyến trong cùng sông Đà giao nhiệm vụ cho boong – ke chìm và pháo đài đá nổ phải tấn công tới tấp đối phương và tiêu diệt triệt để. Ta thấy sông Đà chủ động bày binh bố trận rất kĩ càng, có âm mưu tiêu diệt đối phương bằng một chiến lược, chiến thuật cụ thể. Con sông Đà không chỉ có tính cách, tâm trạng mà còn có âm mưu và tâm địa xấu xa, nó trở thành một loài thủy quái và là kẻ thù số một của con người.
Có thể nói, hình tượng sông Đà nói chung và tính hung bạo của con sông ở thượng nguồn nói riêng đã bộc lộ vẻ đẹp, “cá tính” của dòng sông Đà và sự tài hoa, uyên bác, sử dụng nhiều kiến thức của nhà văn Nguyễn Tuân. Qua hình tượng con sông Đà, ta cảm nhận được niềm tin yêu, gắn bó với cuộc sống của tác giả cùng tình yêu quê hương đất nước bằng việc ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc.
…………………
Tải File tài liệu để xem thêm bài phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà (Dàn ý + 13 Mẫu) Phân tích sông Đà hung bạo của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.