TOP 16 mẫu Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dântrong bài thơ Đất nước siêu hay trong bài viết dưới đây giúp cho các thầy cô giáo và các em học sinh ôn tập, củng cố những kiến thức và kĩ năng đã học trên lớp. Đồng thời hỗ trợ các em trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập để đạt được kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi học kì 1.
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước của nhân dân của ca dao thần thoại. Những thi liệu dân gian được kết hợp với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca chống Mỹ. Bên cạnh đó các em xem thêm bài văn mẫu phân tích Đất nước, kết bài Đất nước.
Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân siêu hay
- Sơ đồ tư duy tư tưởng đất nước của nhân dân
- Dàn ý phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân
- Tư tưởng đất nước của nhân dân học sinh giỏi
- Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân
Sơ đồ tư duy tư tưởng đất nước của nhân dân
Dàn ý phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân
I. Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và tác phẩm Đất nước.
– Giới thiệu về vấn đề cần phân tích: tư tưởng Đất nước của nhân dân
II. Thân bài
1. Quan điểm đất nước qua mỗi thời đại:
– Thời trung đại: đất nước là của vua, lãnh thổ gắn với quyền cai trị của vua.
– Thời cận đại: “Dân là dân nước, nước là nước dân” (Phan Bội Châu), nhưng còn mang nặng tư tưởng phong kiến phương Đông và hệ tư tưởng tư sản.
– Thời hiện đại: Đất nước của đại đa số quần chúng nhân dân.
2. Chứng minh tư tưởng đất nước của nhân dân:
* Đất nước của nhân dân được thể hiện ở chiều rộng lãnh thổ.
– Không gian thân thương gắn với những kỉ niệm của tình yêu đôi lứa:
“Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn”
– Đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết:
“Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở…”
* Đất nước của nhân dân được thể hiện ở chiều dài của lịch sử:
– Đất nước được làm nên bởi những con người bình dị vô danh nhưng lại hết sức lớn lao phi thường.
– Những con người vô danh ấy đã làm nên giá trị vật chất và giá trị tinh thần truyền lại cho con cháu:
- “hạt lúa”: là biểu tượng của những giá trị vật chất và biểu tượng của nền văn minh lúa nước.
- “truyền lửa”: ngọn lửa của văn minh, của nhiệt tình cách mạng và của lòng yêu nước và niềm tin.
- “giọng nói”: là ngôn ngữ của một dân tộc, là linh hồn, sự tồn tại của một quốc gia, giá trị tinh thần quý giá.
* Đất nước của nhân dân được thể hiện trong chiều sâu văn hóa:
– Những truyền thống lâu đời:
- tục ăn trầu của bà.
- thói quen bới tóc của mẹ.
- say đắm và thủy chung trong tình yêu.
- biết quý trọng nghĩa tình.
- quyết liệt với kẻ thù.
3. Nghệ thuật
– Giọng điệu thủ thỉ tâm tình.
– Những hình ảnh quen thuộc gần gũi.
– Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ca dao, tục ngữ, hình ảnh…
III. Kết bài: Tư tưởng đất nước của nhân dân thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp.
Tư tưởng đất nước của nhân dân học sinh giỏi
Bài làm mẫu 1
Nếu trước kia, hình tượng đất nước luôn gắn với trời, với sự thịnh hưng của một triều đại thì ở giai đoạn văn học hiện đại, hình tượng đất nước lại đa chiều và cụ thể hóa hơn rất nhiều. Với tác giả Nguyễn Khoa Điềm, đất nước luôn gắn với nhân dân, với sức mạnh đoàn kết và niềm tự hào lớn lao. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ. Không những thế, ông còn có đóng góp to lớn trên cả mặt trận tư tưởng, chính trị của đất nước. Những tác phẩm của ông luôn có âm hưởng dân gian, giản dị và dễ hiểu. Thế nhưng ẩn sau đó là những suy tư, quan niệm sâu sắc về đất nước, cách mạng và nhân dân.
Bài thơ “Đất Nước” là một trích đoạn trong trường ca “Mặt đường khát vọng”, ra đời năm 1971. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra vô cùng cam go, ác liệt. Nằm trong chương V của trường ca, đoạn trích thể hiện cái nhìn, cảm nghĩ đa chiều của tác giả về đất nước. Trong đó, tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được nhấn mạnh với giọng thơ trữ tình, tha thiết của tác giả.
Trước hết, tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được thể hiện trong chiều dài thời gian lịch sử. Chiều dài ấy không được tính bằng số liệu cụ thể mà được tính bằng lớp lớp thế hệ đã sống, cống hiến và hi sinh cho bình yên và hạnh phúc của đất nước:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Nguyễn Khoa điềm không ngợi ca các triều đại với các vĩ nhân mà lại nâng niu, trân trọng những người dân bình thường. Họ đã cùng nhau, đoàn kết đấu tranh để gìn giữ nền độc lập của dân tộc với hàng trăm lần bị xâm lược. Hơn thế, họ còn làm nên những giá trị vật chất, tinh thần truyền lại cho lớp lớp đời sau thông qua những vật bình thường nhất. Đó là “hạt lúa”, biểu tượng cho nền văn minh lúa nước ngàn đời, mang chiều dài văn hóa và lịch sử của dân tộc. Là “ngọn lửa” thắp sáng không chỉ đời sống bình thường mà còn là ngọn lửa của truyền thống yêu nước, đoàn kết, chan chứa tình yêu của người dân Việt Nam. Là “giọng nói” mà dù có bị xâm lược cả nghìn năm với tham vọng đồng hóa của kẻ thù, cha ông ta vẫn gìn giữ đến tận bây giờ. Với giọng điệu tự hào, hình tượng Đất Nước hiện lên vô cùng thiêng liêng nhưng cũng rất đỗi thân thương với nhân dân.
Quan trọng hơn, tác giả còn khắc họa hình tượng Đất Nước của Nhân dân thông qua việc mở mang bờ cõi, viết tiếp những trang sử hào hùng của cha ông. Đó là lịch sử dài rộng, thiêng liêng được viết nên bởi mồ hôi, xương máu của biết bao con người vô danh:
“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Đất Nước, từ lâu đã nằm sâu trong tâm thức của Nhân dân thông qua những câu chuyện kể, những tập tục lâu đời của dân tộc. Đất Nước còn được gây dựng lên từ tổ tiên, từ ông bà, cha mẹ chúng ta, vì thế càng trở nên thiêng liêng hơn tất thảy.
Bằng việc trở về “ngày xửa ngày xưa”, tác giả đã nhận thấy hai yếu tố cơ bản hình thành nên Đất Nước đó là “Đất” và “Nước”:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn”
Đó là không gian gần gũi, thân thương với mỗi người, gắn với tuổi thơ tươi đẹp nhất. Đất Nước không phải ở đâu xa mà chính là mọi sự vật, con người xung quanh ta, nuôi dưỡng ta không lớn và trưởng thành về cả thể xác lẫn tâm hồn. Đó là không gian rất mơ mộng, ngọt ngào, chất chứa biết bao kỉ niệm và tình yêu làng xóm, gia đình, đôi lứa.
Đặc biệt, tác giả còn khắc họa Đất Nước chính là không gian sinh sống, lao động của cộng đồng người Việt qua hàng ngàn năm. Nó đã được tạo lập từ buổi sơ khai với những truyền thuyết đậm chất sử thi:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Đất nước của Nhân dân không chỉ làm nên giá trị vật chất, văn hóa, tinh thần, Nhân dân còn chính là những người tạo nên vẻ đẹp cho thiên nhiên Đất Nước. Vẻ đẹp ấy không chỉ là gấm vóc non sông mà còn là kết tinh của vẻ đẹp tâm hồn và truyền thống ngàn đời của dân tộc. Từ đó, tác giả đã khái quát nên nhận thức sâu xa về Đất Nước của Nhân dân:
“Ôi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Sau cùng, tác giả Nguyễn Khoa Điềm khẳng định tư tưởng Đất nước của Nhân dân thông qua chiều sâu văn hóa. Tác giả đã khéo léo sử dụng những chất liệu văn hóa dân gian để thể hiện tư tưởng của mình. Những câu ca dao, tục ngữ, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, phong tục tập quán được nhà thơ sử dụng rất tài tình:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Chiều dài của một dân tộc được tính bằng chiều dài của lịch sử, văn hóa của dân tộc đó. Ở đây, tác giả đã gợi nhớ về những phong tục lâu đời của người dân Việt Nam: ăn trầu, búi tóc, đặt tên con cái bằng những đồ vật thân thuộc,… Theo đó, những sự tích trầu cau có từ thời vua Hùng, truyền thuyết Thánh Gióng cũng hiện lên rất khéo léo. Những con người bình dị, vô danh cũng góp mình làm nên Đất Nước với những tập tục đáng trân trọng. Cùng với đó, văn hóa lúa nước cũng được nhấn mạnh với giọng điệu rất tự hào.
Với giọng điệu trữ tình, sử dụng đa dạng chất liệu văn hóa dân gian cùng thể thơ tự do, Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa thành công hình tượng Đất Nước của Nhân dân với những tư tưởng, tình cảm sâu sắc. Không những thế, hình ảnh Nhân dân được nâng lên, trở thành biểu tượng thiêng liêng của Đất Nước, là những người tạo nên, gìn giữ và phát triển Đất Nước tươi đẹp như ngày hôm nay. Đó là những con người bình dị, giản đơn nhưng rất đỗi anh hùng, hi sinh vì dân tộc, quê hương, như Thanh Thảo đã từng ngợi ca:
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”
(Những người đi tới biển)
Bài làm mẫu 2
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tâm sự rằng:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Đó là sự đúc kết của một quy luật nhân sinh, một sự kì diệu tâm hồn: Sự gắn bó với mỗi miền đất sẽ trở thành chính ta, một phần đời ta, là hành trang tinh thần không thể thiếu. Và phải chăng vì lý do này mà những vần thơ viết về quê hương đất nước luôn là những rung động thường trực trong tâm hồn người nghệ sĩ? Chính những rung động ấy đã thôi thúc Nguyễn Khoa Điềm chắp bút viết trường ca “Mặt trường khát vọng”. Một trích đoạn không thể không nhắc đến đó là “Đất Nước” và đoạn trích thể hiện tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971. Đó là thời điểm cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đang trải qua những năm tháng đầy thử thách, khốc liệt. Tác giả đã thể hiện sâu sắc sự thức tỉnh của tuổi trẻ các vùng bị tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của kẻ thù, hướng về nhân dân, sẵn sàng và tự nguyện gánh vác sứ mệnh đấu tranh giải phóng dân tộc. Trường ca gồm 9 chương, đoạn trích “Đất nước” là phần đầu chương V. Đoạn trích đã thể hiện một cái nhìn mới mẻ về Đất Nước : Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra Đất Nước.
Lật giở từng trang trong lịch sử dân tộc có thể nhận thấy tư tưởng Đất Nước của nhân dân có nhiều biến chuyển trong mỗi thời kỳ. Trong thời trung đại khái niệm Đất Nước gắn liền với kỷ niệm quân vương: “Nam quốc sơn hà”, gắn liền với các triều đại: “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi. Nhưng một số tướng lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy vai trò to lớn của nhân dân đối với Đất Nước. Trần Hưng Đạo đã từng dâng kế sách cho vua: “muốn đánh thắng giặc phải biết khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”. Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng nói: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bảo”. Thời cận đại một số chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng đã nhìn ra sức mạnh và vai trò to lớn của nhân dân. Phan Châu Trinh đã có lần nhấn mạnh: “Dân là nước, nước là dân”, đến thời đại của Hồ Chí Minh, Bác cũng luôn nhắc nhở “Đảng ta phải biết lấy dân làm gốc”. Dù ở thời đại nào, các nhà tư tưởng lớn vẫn nhìn thấy vai trò và sức mạnh của nhân dân đối với Đất Nước. Nhân dân gánh trên đôi vai của mình Đất Nước đi suốt cuộc trường chinh cũng như những cuộc khai khẩn đất đai, miền rộng, bờ cõi. Điều này, các nhà thơ nhà văn hiện đại đã có ý thức một cách rõ rệt, sâu sắc, tuy nhiên chỉ đến chương “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng Đất Nước của nhân dân mới được lý giải một cách thấu đáo, toàn diện trên các bình diện lịch sử, địa lý và văn hóa. Bước vào những trang thơ “Đất Nước” ta thấy Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa soi ngắm thật kỹ thật sâu vào các tầng địa lý, lịch sử và văn hóa của Đất Nước. Trước hết nhân dân là người làm nên không gian địa lý của dân tộc:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
…..
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Đất Nước gắn với truyền thuyết, cổ tích, mỗi địa danh đều tắm đẫm những huyền thoại, mỗi hiện tượng văn học dân gian đều nhằm giải thích hình thể của non sông, chứa đựng trong đó những ý nghĩa hết sức thiêng liêng về sự hóa thân của xương máu nhân dân trong quá trình tạo nên Đất Nước. Mỗi tấc đất, mỗi dòng sông đều có xương máu của bao nhiêu thế hệ, đều chứa đựng những ước mơ của con người. Đằng sau tình yêu với Đất Nước, nhà thơ nhận ra không gian địa lý không còn là những hình thể vật chất thuần túy, những sự vật vô tri vô giác mà đó là “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Trong cái nhìn của nhà thơ, hình ảnh núi sông của tổ quốc bỗng trở nên thiêng liêng vô cùng. Đọc những truyền thuyết cổ tích huyền thoại nhằm giải thích hình dáng, tên gọi của danh lam thắng cảnh, ta ngỡ như đó chỉ là một cách mỹ lệ hóa núi sông, huyền thoại hóa một địa danh. Nhưng với cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm – người đọc cảm nhận được những giá trị lịch sử, văn hóa phong phú đa dạng đã gợi lên cái hồn và sức sống của sông núi. Vì thế những núi Vọng Phu đâu còn chỉ là làm đẹp thêm một dáng núi mà là câu chuyện người vợ nhớ chồng hóa thân vào sông núi quê hương để làm nên một Đất Nước thủy chung, tình nghĩa. Đó là những hòn Trống Mái có được tạo hình từ sự hóa thân của những cặp vợ chồng yêu nhau để làm nên một Đất Nước nồng thắm, nhân tình. Đó còn là sự hiện thân của những người học trò nghèo thành núi Bút non Nghiên làm nên một Đất Nước nghìn năm văn hiến. Những ao đầm để lại như dấu tích của đứa trẻ lên ba là tiếng nói của lòng yêu nước, tiếng nói đòi đi đánh giặc…. Đó là những địa danh lấy tên của những cá nhân bình dị nhưng là tấm gương sáng đầy nhân văn: Bà Đen, Bà Điểm, Ông Đốc, Ông Trang? Trên khắp Đất Nước, những con người bình dị đã hóa thân vào sông núi để lại cho đời những cái tên bất tử. Tấm bản đồ Đất Nước được phác họa từ Bắc chí Nam, trở thành tấm bản đồ văn hóa của dân tộc, là nơi ký thác tâm hồn, ước mơ, khát vọng của nhân dân. Đất Nước vừa thiêng liêng, cao cả vừa gần gũi. Trong không gian địa lý Đất Nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm ra bởi sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam. Điệp từ “góp” được sử dụng là sự nhấn mạnh, trân trọng của nhà thơ nhằm ghi nhận và ca ngợi những đóng góp của nhân dân trong hình hài đất nước. Nhân dân chính là người nghệ sĩ đã sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần để làm đẹp thêm thắng cảnh thiên nhiên. Nhân dân thổi hồn vào cảnh vật vô tri để thiên nhiên lưu giữ câu chuyện về phần đời của họ. Tự hào và hãnh diện, trân trọng và ngợi ca, từng ý thơ bật lên từ tấm lòng của một người con đang chiêm nghiệm về quê hương xứ sở, góp thêm vào mảng thơ đề tài Đất Nước những phát hiện mới mẻ và giàu tính nhân văn:
“Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Trên phương diện lịch sử, tác giả nhấn mạnh đến sự đóng góp của những con người bình dị, vô danh trong việc làm nên Đất Nước muôn đời. Nhà thơ chuyển sang giọng điệu tâm tình với “em” mà tìm sự đồng cảm ở hết thảy chúng ta:
“Em ơi em
Hãy nhìn từ rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước”
“Em” là nhân vật trữ tình không xác định, nhưng cũng có thể là sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình. Lời tỏ tình mang giọng điệu tâm tình mà trĩu nặng suy tư. Với lối tâm tình, trò chuyện, nhà thơ đưa ta trở về quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, bốn nghìn năm hầu như không bao giờ nguội tắt ngọn lửa đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là: người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị:
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
…
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”. Nhưng cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống, họ đã “sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng tất cả, họ đều có công “làm ra Đất Nước”. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất nước của nhà thơ. Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân. Những con người làm nên đất nước chính là những con người góp phần bảo vệ đất nước. Họ là những con người bình dị vô danh. Họ là những con người lao động cần cù chăm chỉ nhưng khi đất nước có giặc ngoại xâm thì chính họ trở thành những người anh hùng cứu nước. “Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái cùng con” đã thể hiện sự chung sức, chung lòng để đánh giặc cứu nước, và khi cần thì “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Nhà thơ đã khẳng định truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam: sức mạnh đoàn kết, nhất trí một lòng và có lòng căm thù giặc sâu sắc. Đó là truyền thống được phát huy từ đời này sang đời khác. Chính bằng sự đóng góp một cách tự nhiên đó mà họ đã làm nên lịch sử – truyền thống lâu đời của đất nước. Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, kể tên các bậc vua chúa hay những vị anh hùng dân tộc đã từng rạng danh sử sách, văn chương, mà biểu dương sự cống hiến của muôn vàn những con người bình thường trong việc xây dựng, vun đắp và bảo vệ Đất Nước:
“Nhiều người đã trở thành anh hùng
…
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Hình ảnh “người người lớp lớp”, “bốn nghìn lớp người” chính là biểu tượng cho đông đảo tầng lớp nhân dân kế tiếp nhau. Họ đều mang những đức tính chung của con người lao động như sự cần cù, chất phác và khi có giặc ngoại xâm thì sẵn sàng tự nguyện đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Người con trai ra trận, người con gái ở hậu phương cũng góp sức lực, đảm đang nuôi con để người chồng yên lòng đánh giặc, nhưng khi cần thì giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, đó là hành động tất yếu để bảo vệ mái nhà và bảo vệ quê hương. Những con người anh hùng vô danh ấy có một cuộc sống thật giản dị, chết bình tâm, cống hiến và hy sinh một cách tự nguyện, vô tư, thầm lặng cho Đất Nước. Mặc dù không ai nhớ mặt đặt tên những công lao của họ thật to lớn và đầy ý nghĩa, chính họ đã làm ra Đất Nước. Bằng những câu thơ tuy ngắn ngủi nhưng nhà thơ đã cho ta thấy một sự khẳng định chắc chắn và chặt chẽ về tư tưởng “Đất Nước” của nhân dân. Với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như “hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên làng”…cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân.Không những vậy, họ còn luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu của mình. Với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình…đoạn thơ vừa là lời tâm tình, vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình. Chủ đề về đất nước, quê hương không phải là một chủ đề mới lạ trong văn học Việt Nam. Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ về đất nước của nhiều nhà thơ có tên tuổi…Nhưng, có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò to lớn của nhân dân với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và sâu sắc. Đoạn thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ Miền Nam thời chống Mỹ và tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại lai. Từ đó, đoạn thơ đã làm sống lại truyền thống yêu nước hào hùng trong mỗi chúng ta. Viết về đề tài đất nước – một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc . Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý, lịch sử, văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người. Nếu chỉ dừng lại ở phương diện lịch sử hay phương diện địa lý thì chưa thể có một khái niệm hoàn chỉnh về đất nước. Do đó tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm đã được triển khai trên bình diện thứ ba, bình diện văn hóa, cốt cách tâm hồn dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm không khai thác khía cạnh văn hóa theo hướng liệt kê những danh nhân: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, …. mà tác giả đã tìm đến với những giá trị văn hóa của nhân dân, đó là vẻ đẹp của tâm hồn người Việt:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
Nhân dân đã có công bảo vệ và truyền lại cho con cháu đời sau những giá trị vật chất, tinh thần, giúp hình thành và gìn giữ những giá trị đáng quý của đất nước. Điệp từ “họ” cùng với cách nói: “họ giữ – họ truyền – họ truyền – họ gánh…” cho thấy được sự đóng góp tích cực của nhân dân vì sự phát triển của đất nước. Chính nhân dân mang đến giá trị vật chất: là hạt lúa ta trồng qua bao đời, là ngọn lửa chuyền qua năm tháng sưởi ấm bao căn bếp, là nguồn thủy nông, vườn ruộng dồi dào cho con cháu đời sau “trồng cây hái trái”. Không chỉ vậy, họ còn mang đến những giá trị tinh thần quý báu: họ “truyền giọng điệu mình cho con tập nói”, bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, họ để lại phong tục, tập quán “gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
“Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.”
(Lưu Quang Vũ)
Cội nguồn văn hóa chưa phải là những gì thiêng liêng, cao cả, mà trong tư tưởng của nhà thơ, cội nguồn văn hóa trước tiên bắt nguồn từ chính lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, từ những gì giản dị và thân thuộc nhất như: “giọng điệu”, “tên xã tên làng”…
Không chỉ vậy, nhân dân còn tạo dựng chủ quyền và truyền cho thế hệ sau truyền thống yêu nước và đánh giặc. Nhân dân là những người không tiếc máu xương, sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước trước những biến động lịch sử và hiểm họa xâm lăng:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Dân ta có truyền thống đánh giặc ngoại xâm từ bao đời nay, hết giặc Tàu 1000 năm lại đến giặc Tây 100 năm. Ta lại lật đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi phát xít Nhật để đưa nước Việt Nam đi đến độc lập thống nhất. Và hôm nay đây, trong chính thời khắc bản trường ca này ra đời, ta đang chống lại đế quốc Mỹ xâm lược, lời thơ lại càng giục giã và khí thế hơn. Và sức mạnh nhân dân sẽ là cơn sóng lớn để nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước ấy:
“Sức nhân dân xẻ núi lấp sông
Mồ hôi mặn nhòe bàn tay máu ứa
Con đường mở qua lòng dân rộng mở
Đường vươn dài, dân trải tấm lòng che…”
(Nguyễn Trọng Tạo)
Trận chiến ấy sẽ chiến thắng trong nay mai để mãi mãi:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định ấy đã thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn ai hết là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế Đất Nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân. Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của “ca dao thần thoại” nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất. Và khi nói đến “Đất nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với ý nghĩa của nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”
Nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững không gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.
Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên được viết theo thể thơ tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài, biến hóa linh hoạt tạo cho đoạn thơ giàu sức gợi cảm và khái quát cao. Thủ pháp liệt kê địa danh, nhà thơ luôn viết hoa hai chữ Đất Nước thể hiện sự thành kính thiêng liêng. Động từ “góp” được nhắc lại nhiều lần. Tất cả làm nên đoạn thơ hay về đất nước.
Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ những điều giản dị. Có một hình ảnh đất nước được lý giải với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết ngày xửa ngày xưa. Có những giá trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một không gian tình tứ như chuyện tình của đôi lứa, uyên ương. Tất cả những điều này, được Nguyễn Khoa Điềm truyền tải trọn vẹn trong trích đoạn “Đất Nước” của mình. Cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ đã làm con người xích lại gần nhau, tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ Quốc. Tình yêu và trách nhiệm cao cả ấy trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là quyết tâm của cả một thời đại: “Thời đại của chúng tôi là thời đại của những thanh niên xuống đường chiếm lĩnh từng tầng cao của mái nhà, của ngọn đồi, của nhịp cầu để bắn toả lương tâm lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai).
Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân
Bài làm mẫu 1
Nguyễn Khoa Điềm sinh ra trong gia đình trí thức, có truyền thống yêu nước và cách mạng. Thừa hưởng truyền thống gia đình và vốn tri thức văn hóa sâu rộng của bản thân, thơ Nguyễn Khoa Điềm là kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người. “Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân” (Nguyễn Khoa Điềm) Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi, nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ. Đoạn trích “Đất Nước” được xây dựng theo phương thức luận đề, được thể hiện qua chất liệu văn hóa dân gian quen thuộc. Chính điều này đã tạo nên hiệu quả thẩm mĩ đặc biệt cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện sinh động tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.
Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước và điểm tô cho đất nước. Từ phương diện lịch sử nhà thơ nhận thức sâu sắc: chính nhân dân là người đã lao động để tạo dựng sự sống, chiến đấu để bảo vệ đất nước và họ cũng là người đã giữ gìn, lưu truyền các truyền thống của dân tộc. Nhà thơ thôi thúc người đọc nhìn vào lịch sử tồn tại của đất nước qua giọng điệu tâm tình với nhân vật “em”:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Số từ “bốn nghìn năm” đã lưu ý người đọc tìm về với lịch sử dân tộc bằng niềm tự hào sâu sắc. Nhìn xa vào 4000 năm đất nước, ta nhận ra vai trò quan trọng của người bình dân trong quá trình giữ nước. Cách nói phiếm chỉ về thời gian “năm tháng nào” và điệp từ “người người lớp lớp” khẳng định, ghi nhận công lao của hàng triệu người dân trong quá trình lao động xây dựng và chiến đấu bảo vệ đất nước ở mọi thời kì bằng lòng biết ơn sâu nặng.
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc, người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nghệ thuật liệt kê và phép điệp “con trai, con gái” đã khẳng định chính những người dân bình dị đã làm nên đất nước bằng phẩm chất cao đẹp: cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu, yêu nước nồng nàn. Lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc ghi dấu sự hi sinh thầm lặng của nhân dân trong “bốn nghìn lớp người”:
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Nghệ thuật đối lập giữa những câu thơ “Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” >< “Không ai nhớ mặt đặt tên” đã khẳng định, tôn vinh những con người vô danh, thầm lặng hi sinh cho đất nước. Những câu thơ ngắn, nhịp điệu dồn dập và câu hỏi tu từ “Nhưng em biết không?”, phép điệp “nhiều, anh hùng” thể hiện lòng tự hào, biết ơn sâu sắc của nhà thơ với người anh hùng vô danh đã đóng góp, hi sinh cho đất nước. Cặp tính từ chọn lọc “giản dị và bình tâm” và phép đối “sống và chết” đã khái quát bức họa về người anh hùng nhân dân. Họ sống giản dị, chiến đấu và hi sinh cho đất nước một bình thản. Họ hi sinh mà không cần để lại tên tuổi cho lịch sử, họ chiến đấu vì một lẽ sống bình dị mà cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, dồn nén cảm xúc, chứa đựng sự biết ơn chân thành của Nguyễn Khoa Điềm trước sự cống hiến thầm lặng nhưng lớn lao của nhân dân.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã đem lại cho Nguyễn Khoa Điềm cái nhìn mới mẻ về dòng chảy lịch sử dân tộc, để từ đó thấy được vai trò quan trọng của những người dân bình thường trong quá trình đấu tranh, gìn giữ đất nước. Nhân dân đã bảo lưu, nuôi dưỡng giá trị vật chất, tinh thần của dân tộc. Những con người giản dị của đất nước đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần để tạo ra sự sống cho đất nước trong quá trình lao động nhọc nhằn:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đặp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Đại từ “họ” điệp nhiều lần ở đầu mỗi câu thơ đã làm nổi bật vai trò quan trọng của nhân dân trong quá trình lao động xây dựng sự sống cho đất nước. Lửa và lúa là hai yếu tố quan trọng nhất, “gìn giữ ngọn lửa và giống lúa chính là gìn giữ sự sống còn của cộng đồng”. (Nguyễn Khoa Điềm). Từ quan điểm đó, nhà thơ đã liệt kê để khẳng định chính nhân dân đã tạo dựng, giữ gìn, lưu truyền mọi giá trị văn hóa vật chất, từ những cái nhỏ bé, giản đơn nhưng vô cùng quan trọng. Hình ảnh “truyền giọng điệu mình cho con mình tập nói”, “gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân” nói lên vai trò của những người bình dân trong quá trình bảo lưu các giá trị văn hóa tinh thần của đất nước. Đó cũng là khát vọng giữ gìn bản sắc dân tộc của cha ông. Các động từ “giữ, chuyền, truyền, gánh” dựng lên hình ảnh các thế hệ người dân nối tiếp nhau duy trì cuộc sống, lưu truyền các giá trị truyền thống của dân tộc. Họ không quản khó nhọc, bỏ bao công sức “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Câu thơ nhắc nhở như lời tri ân chân thành của thế hệ hôm nay khi thừa hưởng những thành quả do các thế hệ đi trước tạo nên.
Những người dân bình dị, hiền hòa đã chiến đấu để bảo vệ đất nước và giữ gìn, phát triển truyền thống yêu nước của dân tộc:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Câu điều kiện “có… thì…” được điệp hai lần cùng với phép đối “ngoại xâm”, “nội thù” và liệt kê các động từ “chống, vùng lên, đánh bại” đã khẳng định tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước của nhân dân. Câu thơ là niềm tự hào của tác giả về truyền thống yêu nước. Bằng những công việc giản dị, hoạt động bình thường trong cuộc sống, từ những hành động dũng cảm khi đất nước lâm nguy, từng thế hệ người dân đã bảo lưu, vun đắp, làm nên tiến trình lịch sử của dân tộc. Đoạn thơ thể hiện rõ nét, sinh động tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.
Từ phương diện văn hóa Nguyễn Khoa Điềm đã giúp ta nhận thức sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân qua lối sống, tâm hồn và tính cách của con người Việt Nam. Nhà thơ tiếp tục khái quát và khẳng định tư tưởng cốt lõi: nhân dân là những người đã tạo dựng truyền thống văn hóa của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã viết hoa và điệp danh từ “Nhân dân” nhằm ngợi ca, tôn vinh vai trò quan trọng của nhân dân
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Tác giả trở về với ngọn nguồn phong phú của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao để khẳng định truyền thống văn hóa của đất nước được hình thành từ những vẻ đẹp tinh thần của nhân dân:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù không sợ dài lâu
Bốn câu thơ được lấy từ ý của ba câu ca dao, khái quát ba phương diện quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của dân tộc. Đó là tình cảm, lao động và chiến đấu. Yêu say đắm, thủy chung, coi trọng tình nghĩa hơn vật chất và tinh thần bất khuất, nền bỉ chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo về cuộc sống yên bình cho đất nước. Vận dụng một cách sáng tạo ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cho ta thấy có sự đồng điệu trong tâm hồn của cha ông từ ngàn xưa và thế hệ trẻ hôm nay.
Thán từ “Ôi”, câu hỏi tu từ và hình ảnh “về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát” đã nhấn mạnh đặc điểm riêng về địa lí, văn hóa của đất nước ta:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Đất nước ta mang dấu ấn sâu sắc của nền văn minh sông nước, đất nước của những câu hò, điệu lí, lời ca. Câu hát trên dòng sông gắn liền với các công việc lao động “chèo đò, kéo thuyền, vượt thác” gợi lên tinh thần lạc quan, hăng say lao động của những con người bình dị.
Người đến hát khi chèo đò, lái thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Và chính họ, với những bài ca lao động của mình, đã “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”, tạo nên vẻ đẹp phong phú, kì diệu cho những dòng sông đất nước, góp phần điểm tô, hình thành vẻ đẹp văn hóa của đất nước. Nhìn từ phương diện văn hóa, với vốn tri thức sâu rộng, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh chính nhân dân là chủ thể sáng tạo bản sắc văn hóa của đất nước. Đoạn thơ tô đậm tư tưởng đất nước của nhân dân, một tư tưởng mang tính chân lí được tác giả đúc kết từ kiến thức sách vở và kinh nghiệm cuộc sống.
Thể thơ tự do được sử dụng sáng tạo, nhịp điệu biến đổi linh hoạt, các phép điệp, được sử dụng hiệu quả đã tạo nên giá trị thẩm mĩ cho đoạn thơ. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng hình ảnh và từ ngữ chọn lọc, giản dị, tinh tế, giúp người đọc nhận thức rõ chính nhân dân đã tạo dựng đất nước, tạo dựng sự sống, giữ gìn truyền thống, văn hóa dân tộc.
Đoạn thơ là tình cảm yêu mến, tự hào của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò của nhân dân trong quá hình thành xây, điểm tô vẻ đẹp của đất nước. Đó là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò của người, là tiếng lòng chân thành của thế hệ trẻ hướng tới cội nguồn dân tộc, tới truyền thống văn hóa, lịch sử mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau. Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân” bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình chính trị sâu lắng, thiết tha.
Bài làm mẫu 2
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức vì đất nước, con người Việt Nam. “Đất Nước” trích trong chương 5 trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm góp phần làm phong phú hơn, tươi mới hơn tư tưởng ấy bằng tiếng nói riêng và cách thể hiện độc đáo. Tư tưởng chủ đạo của “Đất Nước” đó là: Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Đất nước – một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kì lịch sử, mỗi tác giả, tác phẩm thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mĩ riêng. Ở thời đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc” vì quan niệm đất nước gắn liền với công lao của đế vương, của các triều đại:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư”
(Lý Thường Kiệt)
hay
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
(Nguyễn Trãi)
Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng này có một bước tiến mới qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân” nhưng dẫu sao vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản.
Đến thơ ca Việt Nam thời kì 1945-1975 thì tư tưởng đất nước nhân dân được thế hệ các nhà thơ chiến sĩ nhìn nhận một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong mối quan hệ riêng – chung, tôi – ta ở đó có sự hòa quyện và tỏa sáng của tình yêu đất nước và tình yêu đôi lứa. Đất nước của nhân dân đã được các nhà thơ thể hiện đặc sắc và thành công như:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
hay
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ giữa đời
Và như thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”
(Thanh Thảo)
Và tư tưởng này được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một cách sâu sắc thấm thía trong “Đất Nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng”.
Đất nước được nhà thơ nhìn nhận và thể hiện qua bề rộng không gian địa lí. (lấy kiến thức đoạn “Đất là nơi anh đến trường….cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” và ” những người vợ nhớ chồng….Bà Đen, Bà Điểm”)
Nhà thơ suy tư về “Đất Nước” qua độ rộng của không gian địa lí để khẳng định đất nước của nhân dân. Theo cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi chúng ta:
“Đất là nơi anh đến trường
…
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
…
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục suy tư về Đất Nước qua bề rộng lãnh thổ:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những người dân nào đã góp nên tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Đất nước trở thành sự sống máu thịt vô cùng thiêng liêng đối với mỗi người tuy chỉ có một phần nhưng đó là linh hồn là sự sống của Đất Nước. Cho nên xây dựng bảo vệ và hi sinh vì Đất Nước là vai trò trách nhiệm cao cả của chúng ta bởi Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Tác giả đã có cái nhìn thật mới mẻ về vẻ đẹp của Đất Nước, Tổ Quốc gắn với những con người bình dị vô danh.
Đất nước được thể hiện và cảm nhận trong chiều dài lịch sử (tư liệu từ ” Và ở đâu trên khắp ruộng đồng… cho người sau trồng cây hái trái)
Đoạn trích có cái nhìn rất sâu và rất xa về bốn nghìn năm Đất Nước nhưng đó không phải là thời gian lịch sử xác định mà là thứ tác giả ảo diệu mơ hồ “ngày xửa, ngày xưa” gắn với sự trường tồn của Đất Nước, sức sống mãnh liệt của nhân dân. Nhà thơ khẳng định lại các triều đại như Nguyễn Trãi đã từng viết ” Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập…” và cũng không nhắc những tên tuổi lừng danh trong sử sách như Chế Lan Viên:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng…”
mà nghiêng về bày tỏ niềm tự hào lòng biết ơn trân trọng đến lớp lớp những người anh hùng vô danh:
“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Những người vô danh ấy đã làm nên giá trị vật chất và giá trị tinh thần truyền lại cho con cháu mai sau:
“Họ giữ và truyền cho ra hạt lúa ta chồng
…
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
Từ “họ” đứng ở đầu dòng thơ được điệp đi điệp lại liên tục có tác dụng ca ngợi vai trò to lớn của “họ” trong việc “giữ và truyền” cho con cháu muôn đời những giá trị vật chất và tinh thần. “Họ” mang một tên chung đó là “nhân dân”. Những từ “giữ”, “truyền” xuất hiện với mật độ dày đặc thể hiện sự tiến hóa của lịch sử giống như một cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp sức của nhân dân, nhờ có họ “giữ” và “truyền” mà con cháu được thừa hưởng giá trị vật chất và tinh thần. “Hạt lúa” biểu tượng cho giá trị vật chất, cho nền văn minh lúa nước, “ngọn lửa” không chỉ biểu tượng giá trị vật chất mà nó còn biểu tượng cho ngọn lửa của truyền thống cách mạng, ngọn lửa của văn minh, ngọn lửa của sự ấm áp, tin yêu. “Giọng nói” là tiếng nói của nòi giống, của dân tộc, của biểu tượng cho giá trị tinh thần ngàn đời. Quan trọng hơn nhân dân còn là người mở mang bờ cõi, viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc, làm nên những thành quả cho con cháu mai sau. Lịch sử của đất nước được viết bằng máu của những người không tên, không tuổi để rồi:
“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Nói về lịch sử mấy nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như những nhà thơ khác, cũng không xây dựng những hình ảnh kì vĩ để tụng ca, chiêm ngưỡng mà dùng cách nói giản dị tự nhiên đậm màu sắc dân gian. Đất nước hiện lên từ những cái “ngày xửa ngày xưa….”, trong những câu chuyện cổ tích mẹ kể có ông Bụt, bà Tiên, cô Tấm thảo hiền, có sự tích trầu cau, Thánh Gióng, … Ở đó đất nước gần gũi bình dị mà thiêng liêng với phong tục ăn trầu của bà, tập quán búi tóc sau đầu của mẹ, tình nghĩa của cha, sự vật hàng ngày cái kèo, cái cột,…Như vậy lịch sử đất nước dựng lại trong từng câu chuyện cổ xa xưa, gắn với cuộc sống, số phận của nhân dân.
Những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện ở nguồn mạch phong phú của văn hóa dân tộc, văn học dân gian. Tác giả đã sử dụng và sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc. Nhưng đất nước có từ thời xa xưa mà không hề xa lạ, lại vô cùng gần gũi, thân thiết như câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn… Cái tài tình, tinh tế của Nguyễn Khoa Điềm là lấy ý, lấy hình ảnh của thần thoại cổ tích và câu ca xưa để tạo nên những biểu tượng phong phú, mới lạ, làm tăng thêm nhận thức tình yêu cũng như vẻ đẹp của đất nước, nhân dân trong những giá trị văn hóa, tinh thần vĩnh hằng, bất tận của nhân dân.
Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước của nhân dân là sự hội tụ và kết tinh với bao công sức và khát vọng của nhân dân. Đồng thời nhân dân là người làm ra đất nước cho nên khi viết về đất nước, nhà thơ đưa ta trở về cội nguồn của các giá trị văn hóa dân tộc, tìm thấy những nét nổi bật của tâm hồn, tính cách Việt Nam. Tiêu biểu nhất là tinh thần, là truyền thống thủy chung say đắm trong hạnh phúc tình yêu.
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Rồi biết quý trọng tình nghĩa, coi trọng đạo nghĩa con người
“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”
Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù để có được hạnh phúc bền lâu:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Đoạn trích khép lại tư tưởng đất nước nhân dân nhưng lại ngời lên trăm dáng, trăm màu của dòng sông văn hóa, đậm đà hương sắc dân gian, linh hồn Việt.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình còn bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xanh”
Tư tưởng đất nước trong chương thơ được thể hiện qua hình thức thơ trữ tình chính luận độc đáo. Ở đó thơ tự do phóng túng, thoải mái, tạo nên lối tư duy hiện đại và tính triết luận của tác phẩm nhằm trả lời cho câu hỏi ” Đất nước ta có từ bao giờ?”, “Đất nước là gì?”, “Đất nước của ai?”… Kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy tưởng, giữa yếu tố chính luận và sắc màu trữ tình. Giọng thơ thủ thỉ tâm tình như lời trò chuyện của “anh” với “em” tạo nên âm vang ngân nga, sâu lắng, thiết tha và trang trọng về đất nước nhân dân. Tác giả cũng vận dụng phong phú, sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc: phong tục tập quán, huyền thoại, huyền sử, lấy ý hình ảnh của ca dao, tục ngữ, thành ngữ…tạo nên những liên tưởng mới mẻ và rất đẹp về đất nước. “Đất nước” là một tác phẩm nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm mà ở trong đó là một thế giới nghệ thuật rất riêng: Đất nước bình dị gần gũi mà cũng vô cùng sâu xa, thiêng liêng lại bay bổng, lãng mạn và lấp lánh màu sắc ca dao, cổ tích.
Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần làm phong phú hơn, sâu sắc hơn tư tưởng đất nước nhân dân của thơ ca thời chống Mĩ, đem đến cho người đọc nhận thức sâu sắc về đất nước của nhân dân. “Đất nước” – một giai điệu nhỏ bé trong bản hợp ca về đất nước những năm 1945-1975 nhưng tác phẩm ấy vẫn âm vang một nhịp điệu riêng khó nhầm lẫn nhờ tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Khoa Điềm: “Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại…”. Đất nước sẽ còn được nhắc đến như một bài ca không bao giờ quên.
Bài làm mẫu 3
Đất nước là một chủ đề được quan tâm hàng đầu đối với lịch sử văn học nước ta. Mỗi thời đại có một cách hiểu, cách quan niệm riêng về đất nước. Thời trung đại người ta thường quan niệm đất nước gắn liền với công lao của các triều đại, do các triều đại kế tiếp nhau gây dựng lên. Còn ở thời hiện đại, khi người ta nhìn thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, người ta mới thấy rằng đất nước là của nhân dân. Điều này tất nhiên càng được các nhà văn Việt Nam ý thức sâu sắc hơn ai hết khi dân tộc ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại chống Mỹ cứu nước. Tư tưởng xuyên suốt chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là tư tưởng đất nước của nhân dân.
Thành công đầu tiên khi thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa rất phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân gian. Vẫn biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Văn hóa dân gian trong bài thơ là những câu tục ngữ ca dao, những làn điệu dân ca, những câu hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn trong câu thơ: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Nguyễn Khoa Điềm đi tìm đất nước ở cái ngày xửa ngày xưa trong câu chuyện cổ tích. Vì vậy nhà thơ mở đầu khúc ca đất nước bằng những câu thơ:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Trở về với cái “ngày xửa ngày xưa” ấy, nhà thơ đã phát hiện ra hai nguyên tố gốc, nguyên tố cơ bản làm ra đất nước đó là “đất” và “nước”. Trong quá trình hình thành thực thể đất nước cũng như phát triển đất nước “đất” và “nước” là hai tế bào đầu tiên. Nguyễn Khoa Điềm biến hóa, nhân đôi, sinh sôi nảy nở để trở thành cơ thể đất nước hoàn chỉnh. Tất cả những điều đó làm toát lên vẻ đẹp của nền văn minh lúa nước lâu đời. Cái hay của Nguyễn Khoa Điềm ở đây là ông không đặt nguyên những câu tục, ngữ ca dao nào thành thơ của mình mà dường như những chất liệu văn hóa dân gian này thấm sâu vào tâm hồn ông ngay từ tấm bé qua câu hát điệu ru của bà của mẹ để bây giờ khi viết về đất nước, ông đã chắt lọc và xử lý qua lăng kính tâm hồn của mình. Thế là mỗi câu thơ dưới ngòi bút Nguyễn Khoa Điềm phảng phất theo làn điệu dân ca, phỏng theo những điệu hát ca dao, phỏng theo câu truyện cổ tích.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm”
Dùng thuyết âm dương, nhà thơ đã nhập đất vào với nước để tìm ra khái niệm đầu tiên:
“Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Với cách cắt nghĩ khám phá để lý giải, tác giả khẳng định làm ra đất nước này đó chính là sự hò hẹn của đôi ta. Đôi ta ở đây chính là “anh và em”, là sự hóa thân của nhân dân. Nói cách khác nhân dân là người làm ra đất nước.
Văn hóa dân gian là sản phẩm tinh thần của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã mượn sản phẩm tinh thần của nhân dân để viết về tư tưởng đất nước của nhân dân, như vậy bài thơ Đất Nước từ nội dung đến hình thức nghệ thuật đều thấm đẫm tư tưởng đất nước của nhân dân. Và cứ như thế, không mạnh mẽ gân guốc, tác giả thủ thỉ thì thầm với người đọc để khẳng định rằng đất nước này trong bốn nghìn năm qua không ai khác ngoài nhân dân bằng những câu thơ:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Đất nước này có phát triển, có vẹn tròn to lớn nhờ có chúng ta cầm tay mọi người, nhờ có tinh thần đoàn kết của nhân dân. Tinh thần đoàn kết ấy tạo ra sức mạnh cho đất nước, giúp đất nước phát triển to lớn.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Vẫn biết rằng một đất nước là sự cộng gộp của biết bao ngọn núi, con sông, ruộng đồng, gò bãi… Ở đâu cũng có tên đất, tên làng, tên núi, tên sông… Một mảnh đất chừng nào thiếu đi tên gọi, chừng ấy nó thiếu đi sự thiêng liêng của con người. Nhưng đặt tên gọi không tùy tiện bởi đằng sau tên gọi là một huyền thoại, đằng sau huyền thoại là một cuộc đời. Chính cuộc đời ấy, con người ấy ngã xuống bảo vệ đất nước này, làm nên đất đai của xứ sở.
Hòn Vọng Phu ngàn năm còn đó như minh chứng cho lòng thủy chung, son sắc ngàn đời của người phụ nữ Việt Nam bởi hai chữ “Vọng Phu” là chờ chồng. Đất nước ta đã phải trải qua ba mươi lăm năm của hai cuộc chiến tranh trường kỳ gian khổ, biết bao nhiêu “người con trai ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con”. Đây chính là tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Nội dung cũng là hình ảnh người học trò nghèo đã “góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên”. Họ còn là người yêu quê hương, thổi hồn mình vào con cóc, con gà “cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Đó là những người ta nhớ mặt đặt tên: “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” nhưng thử hỏi đất nước này có biết bao nhiêu con người ngã xuống vì ngày mai độc lập, ngã xuống để bảo vệ đất nước mà ta không nhớ mặt đặt tên:
“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”
Như đã nói là người chiến sĩ làm thơ, gót chân của Nguyễn Khoa Điềm đã in hằn trên mọi nẻo của Tổ quốc thân yêu. Đi đến đâu, nhìn vào lĩnh vực nào, khía cạnh nào, phương diện nào ông cũng đều chia sẻ tất cả là do nhân dân làm ra.
Từ một tiền đề vững chắc, tác giả đã triển khai đất nước ở chiều dài thời gian lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước:
“Em ơi em
…
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
Trong suốt bốn nghìn năm ấy, người Việt Nam cứ truyền ngọn lửa yêu nước từ lớp người này qua lớp người khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Lớp lớp người Việt Nam ra đánh trận để viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Trang sử ấy được viết lên bằng máu, bằng mồ hôi, bằng nước mắt, bằng cuộc đời của biết bao con người. Nhận định về vấn đề này, Engels đã nói: “Không có máu và nước mắt của nhân dân, dân tộc ấy không thể có lịch sử”.
Đặt bài thơ “Đất nước” trong bối cảnh ngày hôm nay, khi nền văn học Việt Nam đang hội nhập với nền văn học thế giới. Mỗi người Việt Nam yêu nước cần phải bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Và thế là “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định những thành công vốn có của bài thơ này, xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của mỗi chúng ta.
Vẫn biết rằng trường ca là một thể thơ dài, khó thuộc khó nhớ và người viết trường ca dễ bị sa vào lối liệt kê, kể lể. Trích đoạn “Đất Nước” nói riêng, trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung tuy không tránh khỏi tùy vết này nhưng với tất cả những gì Nguyễn Khoa Điềm đã mang lại cho bài thơ “Đất Nước” với tư tưởng đất nước của nhân dân, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm xứng đáng là những vần thơ của năm tháng không thể nào quên.
Bài làm mẫu 4
Trong bản hợp xướng của thơ ca chống Mỹ, nổi lên những âm vang trầm hùng, sâu lắng thiết tha về đất nước. Đất nước hiện lên qua màu xanh “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy, trong dòng người cuồn cuộn trên “Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh”, “Những người đi tới biển” của Thanh Thảo. Đất nước đó cũng rung lên mạnh mẽ khi tuổi trẻ không yên những tà áo trắng đã xuống đường trong “Mặt đường khát vọng” (1974) của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bản trường ca chín chương sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ trước vận mệnh của dân tộc, ông đã dành hẳn một chương (V) để nói về đất nước:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” đã thấm nhuần trong cả chương thơ về “Đất Nước”. Điều mà chúng ta dễ nhận ra trước tiên là tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn hoá dân gian. Nghĩa là văn hoá của nhân dân từ ca dao tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến cuộc sống dân dã hàng ngày: miếng trầu, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột. Các chất liệu ấy đã tạo ra được một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc gần gũi mà sâu xa, bay bổng của văn hoá dân gian Việt Nam bền vững và độc đáo. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo truyền thống văn hoá dân gian, mà chính là thấm nhuần quan niệm về “Đất Nước của Nhân dân”, là sự thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi ấy trong cảm hứng và sáng tạo hình ảnh thơ của tác giả:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa… mẹ thường hay kể”
Bằng giọng tâm tình như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm xúc và suy tưởng của mình về đất nước. Cảm hứng có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút bằng thơ, nhưng thực ra nó vẫn có một hệ thống lập luận khá chặt chẽ rõ ràng. Tác giả đã tập trung thể hiện đất nước trên các bình diện chủ yếu đó là Đất Nước trong chiều dài thời gian lịch sử (quá khứ xa xưa cho đến hiện tại tương lai); trong chiều rộng không gian lãnh thổ, địa lý. Và cuối cùng là trong bề dày văn hoá, tâm hồn cốt cách. Ba phương diện ấy được thể hiện trong sự gắn bó thống nhất. Nhiều khi một chi tiết đưa ra cùng nói về mấy cả phương diện ấy của đất nước. Nhưng ở bất cứ phương diện nào thì quan niệm “Đất Nước của Nhân dân” cũng là tư tưởng cốt lõi, là sợi chỉ đỏ xâu chuỗi mọi cảm xúc và suy tưởng cụ thể và chính nhờ đó, mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, có chiều sâu nhiều khi ở chính những hình ảnh chất liệu quen thuộc.
Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích trầu cau từ đời Hùng Vương dựng nước xa xưa, về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã đi vào lịch sử? Nghĩa là lịch sử đất nước được đọng lại trong từng câu chuyện kể, hiện hình trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong trồng tre mà đánh giặc. Hay nói cách khác đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tâm hồn nhân dân qua bao thế hệ. Đó cũng chính là Đất Nước của Nhân dân.
Vì vậy khi nghĩ về mấy ngàn năm lịch sử của đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây dựng nên nền độc lập (Nguyễn Trãi) và cũng không nhắc lại tên tuổi những anh hùng lừng danh trong sử sách như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… mà Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh đến muôn ngàn những con người bình dị vô danh:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Nhưng con người vô danh ấy chính là nhân dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đất nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm mà còn là người sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ nối tiếp nhau:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân”
Cùng với thời gian đằng đẵng là không gian mênh mông được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ: “Đất là nơi chim về – Nước là nơi rồng ở”. Một đất nước đẹp đẽ và thiêng liêng biết bao!
Nhưng đất nước cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân: “Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm” và đất nước ấy đã chứng kiến những mối tình đầu của biết bao lứa đôi:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Từ quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã có những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về vẻ đẹp thiên nhiên đất nước gắn liền với con người mà trước hết là những con người bình thường. Và chính những con người bình thường ấy đã làm nên vẻ đẹp muôn đời của thiên nhiên đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu sắc gấm vóc của non sông, mà còn là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống dân tộc:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”
Rồi người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên, cho đến những địa danh thật nôm na bình dị. Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Từ đó, tác giả đã đi tới một nhận thức khái quát sâu xa:
“Ôi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Đất nước ấy còn có một bề dày văn hoá, tâm hồn cốt cách Việt Nam. Cũng như hai phương diện trên, bề dày văn hoá không được nói đến qua các danh nhân văn hoá như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm… mà được thể hiện trong nguồn mạch phong phú của văn hoá dân gian để nêu lên truyền thống tinh thần và vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Trong các kho tàng văn hóa phong phú ấy, tác giả tìm thấy những vẻ đẹp nổi bật của tâm hồn tính cách Việt Nam. Đó là thật say đắm và thuỷ chung trong tình yêu: Yêu nhau từ thuở trong nôi; cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối mặn; Biết quý trọng tình nghĩa: Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội. Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù: Biết trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù không sợ dài lâu. Ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc đã được ông nói lên sâu sắc, thấm thía từ những câu ca dao đẹp – những tiếng lòng của nhân dân trải qua từng thời kỳ lịch sử.
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là Đất nước của Nhân dân của ca dao thần thoại. Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca chống Mỹ.
……………
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ Đất nước Sơ đồ tư duy & 16 bài văn mẫu hay nhất lớp 12 của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.