Phân tích Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ thấy được tình trạng thê thảm của những người nông dân trong nạn đói năm 1945 mà còn ca ngợi bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Nổi bật lên đó là bà cụ Tứ, nhân vật Tràng và người vợ nhặt.
TOP 20 bài phân tích Vợ nhặt là tài liệu nhằm giúp cho các em lớp 12 tự học một cách thuận lợi, đặc biệt là trong việc chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp. Từ đó đạt được kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi giữa học kì 2 Ngữ văn 12 sắp tới. Bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn mẫu: tóm tắt Vợ nhặt, phân tích bà cụ tứ, phân tích nhân vật Tràng.
Phân tích Vợ nhặt của Kim Lân hay nhất
- Dàn ý phân tích truyện Vợ Nhặt
- Sơ đồ tư duy phân tích Vợ nhặt
- Phân tích Vợ nhặt hay nhất
- Phân tích bài Vợ nhặt
- Phân tích tác phẩm Vợ nhặt
- Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ngắn gọn (6 Mẫu)
- Phân tích bài Vợ nhặt đầy đủ nhất (10 Mẫu)
Dàn ý phân tích truyện Vợ Nhặt
I. Mở bài:
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.
II. Thân bài:
1. Ý nghĩa nhan đề
“Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.
2. Tình huống truyện
- Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
- Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.
3. Nhân vật Tràng
– Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, …, bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
– Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
– Lần gặp 2:
- Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
- Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
- Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về
- Vẻ mặt “có cái gì hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, … Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
- Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
- Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
- Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, …), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
– Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
4. Nhân vật người vợ nhặt
a. Lai lịch
- Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.
b. Chân dung
– Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
– Lần thứ hai:
- Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
- Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
– Nhận xét: Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.
c. Phẩm chất
– Có khát vọng sống mãnh liệt:
- Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
- Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
– Thị là người ý tứ và nết na:
- Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
- Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
- Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
- Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
- Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
– Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
– Nêu cảm nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
5. Nhân vật bà cụ Tứ
– Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
– Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
– Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhòa đi”: thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
– Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, …
– Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.
III. Kết bài:
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Xem thêm: Dàn ý phân tích tác phẩm Vợ nhặt
Sơ đồ tư duy phân tích Vợ nhặt
Sơ đồ phân tích Vợ nhặt
Xem thêm: Sơ đồ tư duy bài Vợ nhặt
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt
Tác phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân Đã phản ánh rất chân thực cuộc sống khốn khó của người nông dân Việt Nam trước CMT8. Cuộc sống của họ bị đàn áp và dồn đến tận cùng khi mà sinh mạng của con người rẻ rúm. Hình tượng người vợ nhặt không tên trong truyện ngắn chính là nhân chứng hùng hồn cho giai đoạn khốn khó của nhân dân ta.
Truyện ngắn “Vợ Nhặt” chỉ xoay quanh 3 nhân vật chính của một gia đình thuộc xóm ngụ cư đó là: anh cu Tràng, bà cụ Tứ và nhận vật thị vợ nhặt của Tràng. Người phụ nữ này tuy không có tên nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã được hiện ra rõ nét với số phận và tính cách riêng. Vợ của Tràng cũng như hàng ngàn, hàng vạn người phụ nữ cùng thời. Họ bị xã hội phong kiến đàn áp đến mức vì sự sống mà phải tự “bán rẻ” mình đi làm vợ nhặt của người mới quen.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện ngay từ đầu chuyện với một dáng vẻ rất đáng thương, Thị trông gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, quần áo thì rách tả tơi, mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi mới gặp Tràng thì là người đanh đá, táo bạo đến mức trở nên trơ trẽn. Thị nghe thấy anh chàng phu xe bò hát một câu bâng quơ: “Muốn ăn cơm trắng với giò này. Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Thị đã chạy ra cong cớn, lon ton đẩy xe cho Tràng. Và lần thứ hai khi gặp lại Tràng, thị đã sưng sỉa cái mặt lên mắng anh: “Điêu. Người thế mà điêu”. Lúc thấy Tràng có vẻ dễ bắt nạt thị liền cong cớn hơn. Rồi Tràng cũng phải chiều lòng cho thị ăn bánh đúc. Thấy ăn hai con mắt trũng hoáy của thị sáng bừng lên. Thị không còn biết ngại là gì cắm đầu ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong thị dùng đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. Thực ra đây không phải là tính cách vốn có của Thị. Cũng chỉ vì miếng ăn mà thị đã phải làm tất cả hy sinh cả tự trọng để được ăn và giữ lại sự sống cho mình.
Khi được Tràng đề nghị là về làm vợ mình, thị đã không ngần ngại mà theo anh về nhà luôn. Trên con đường trở về nhà ta thấy tâm lý của thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng hớn hở tủm tỉm cười thì thị lại ngại ngùng cắp cái thúng con và cái nón rách nghiêng nghiêng để che khuất đi nửa mặt. Lúc này ta thấy thị lại trở về đúng nghĩa là một người phụ nữ khi có sự e thẹn đúng như gái mới về nhà chồng. Thị không còn cái vẻ cong cớn, đanh đá lúc trưa nữa mà thay vào đó là nét hiền dịu hơn. Lúc này, thị cũng đã bắt đầu nhận thức được thân phận mình là người vợ theo không nên đành chấp nhận số phận.
Về đến nhà của Tràng thì tâm trạng của nhân vật thị lại càng khác hơn. Khi mà người đàn bà đấy lại có sự tò mò và bỡ ngỡ của nàng dâu mới về nhà chồng. Thị đảo mắt một vòng xung quanh nhà đúng thật nhà Tràng rất nghèo. Thị cố nén tiếng thở dài và nghĩ đến những ngày sau này. Mặc dù đã được Tràng cố gắng tạo sự tự nhiên bằng cách giục thị ngồi xuống giường nhưng thị vẫn e thẹn chỉ dám ngồi mớm vào mép giường rất khép lép. Cho đến khi bà cụ Tứ về trước mặt mẹ chồng thì lại càng e thẹn. Vẫn đứng nguyễn chỗ cũ không dám nhúc nhích. Chính thái độ e thẹn của thị đã làm bà cụ Tứ thương cảm và chào đón thị một cách rất nhiệt tình.
Sáng hôm sau cũng giống như bất kỳ nàng dâu mới về nhà chồng nào. Thị cũng dậy sớm cùng với bà cụ Tứ lo dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa sáng cho cả gia đình. Một người vô tâm như Tràng cũng nhận được ra sự thay đổi kỳ lạ của thị. Hôm nay Tràng nhìn thấy ở thị không còn vẻ chỏng lỏn, chao chát hôm gặp ngoài tỉnh nữa mà chỉ còn nét hiền dịu đúng mực của người phụ nữ Việt Nam. Không những thế thị còn tỏ ra là người rất biết làm ăn và lo xa. Khi nghe tiếng trống thúc thuế thị đã khẽ thở dài. Rồi cũng chính thị là người đã gợi chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta đã không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật để chia cho người đói. Câu chuyện của thị như tiếp thêm sức mạnh cho anh cu Tràng vươn đến khát vọng tự do vì một ngày mai tươi sáng hơn. Trong giấc mơ của thị và Tràng đã lấp lánh hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh này biểu trưng cho một cuộc sống ấm no hạnh phúc trong tương lai.
Thông qua nhân vật thị nhà văn Kim Lân không chỉ phản ánh thành công hiện thực cuộc sống khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước CMT8 năm 1945. Không nhắc đến tên nhưng thông qua ngòi bút tài ba của nhà văn nhân vật vợ nhặt đã hiện ra rất chân thực. Thị là tiêu biểu cho số phận của hàng trăm, hàng ngàn phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Phân tích Vợ nhặt đạt điểm cao
Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học hiện thực Việt Nam. Các tác phẩm của ông xoay quanh chủ đề người nông dân và vẻ đẹp của họ trong những hoàn cảnh điển hình của đất nước. Chúng ta hẳn vẫn chưa quên hình ảnh của ông Hai bước ra từ truyện ngắn Làng với lòng yêu nước sâu sắc và nghĩa tình với quê hương tha thiết. Đến với Vợ Nhặt, ta lại không khỏi xúc động trước khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của những người nông dân trong cảnh khốn cùng. Có thể nói truyện ngắn Vợ nhặt là một tác phẩm thành công điển hình cho phong cách và tài năng của Kim Lân. Truyện lấy bối cảnh của những năm 1944-1945, khi nước ta đang phải đối mặt với nạn đói “hoành hành”, cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” ấy cướp đi sinh mạng của hàng vạn con người. Bằng bút pháp hiện thực và tinh thần nhân đạo sâu sắc tác giả không chỉ khắc họa hiện thực tàn khốc của nạn đói mà còn làm sáng bừng lên vẻ đẹp của tình người ngay trong hoàn cảnh thử thách nhất.
Truyện bắt đầu từ việc “nhặt vợ” đầy lạ lùng, éo le của anh cu Tràng. Theo lẽ thông thường, để lấy được vợ người ta phải làm lễ cưới hỏi đàng hoàng, còn anh cu Tràng thì khác, anh nhặt vợ chỉ với vài câu bông đùa cùng bốn bát bánh đúc ăn vội. Tình huống càng éo le hơn, khi mà Tràng và mẹ đang trong hoạn nạn của đói khổ, vùng vẫy giữa cảnh khốn cùng thì Tràng lại đèo bòng, nhà lại có thêm một miệng ăn, gánh nặng lại thêm ghì lên vai. Tràng có vợ khiến người ở xóm Ngụ cư ai nấy đều kinh ngạc, ai nấy đều tò mò, thích thú nhưng cũng không khỏi xót xa trước một tình cảnh éo le. Bởi họ biết giờ này đến thân còn không lo nổi thì làm sao có thể lo thêm cho ai. Một tình huống “nhặt vợ” tuy nhẹ nhàng nhưng là tiền đề để triển khai câu chuyện, thể hiện tư tưởng nhân văn trong tác phẩm về tiếng nói của tình người, của lòng nhân ái. Giữa cảnh khốn cùng, người ta vẫn sẵn sàng cưu mang nhau lúc khốn khó, trong đói rét ngọn lửa của khát khao hạnh phúc vẫn nhen nhóm và bùng cháy trong tâm thức mỗi con người.
Những nhân vật bước ra từ trang văn Vợ nhặt đều để lại trong lòng chúng ta những ấn tượng và niềm thương cảm sâu sắc. Trước tiên, đó là Tràng, một người nông dân hiền lành, chất phác mà giàu tình cảm. Tràng vốn sinh ra không được sự ưu ái của tạo hóa khi mang trên mình một dáng hình xấu xí, tình tình lại cục mịch, chẳng được lanh lợi như bao người: “ …Hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhín những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ.”
Hơn thế nữa, Tràng con là dân ngụ cư, khốn cảnh không có đất đai mà cày cấy, đã nghèo lại càng nghèo thêm. Người như Tràng thì khó có vợ, hắn biết, mẹ hắn cũng biết và cả xóm ngụ cư đều biết. Tuy vậy, nhưng Tràng là người hiền lành, luôn vui vẻ với bọn trẻ quanh xóm ngụ cư và còn rất chăm chỉ. Tràng ngày ngày vẫn làm thuê kiếm sống, cùng người mẹ nghèo cố gắng từng ngày. Cũng như bao người con trai khác, Tràng cũng mong có vợ, niềm hạnh phúc đến với hắn khi được thị theo về khi chợt cất lên câu nói bông đùa trong một lần đẩy xe bò thuê thì gặp thị: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Từ giây phút ấy, Tràng bắt đầu trưởng thành và thay đổi lên rất nhiều. Niềm hạnh phúc có vợ, niềm hạnh phúc khi được sống trong một căn nhà nhỏ ấm êm có một người mẹ hiền, một cô vợ thảo đã khiến Tràng thay đổi, Tràng thấy mình như “nên người” hơn: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.”
Sự xuất hiện của thị là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, khiến Tràng thay đổi tích cực về cả nhận thức và hành động. Có thể nói niềm hạnh phúc có vợ ấy đã xua tan những nỗi lo chuyện cơm áo nơi Tràng, khiến Tràng trân trọng và thêm niềm tin vào cuộc sống. Sức mạnh của tình yêu, của hạnh phúc đã cứu vớt tâm hồn Tràng, dẫu đó chỉ là thứ hạnh phúc “nhặt vội” mà thôi. Qua nhân vật Tràng, tác giả đã bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước số phận của những con người bất hạnh trong xã hội, là niềm tin tưởng vào những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam xưa.
Thị cũng là một nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm. Người phụ nữ không tên, khổng tuổi, với dáng hình gầy đét đi vì đói. Cái đói đã đày đọa con người cả dáng hình, thậm chí thị phải vứt bỏ cả lòng tự trọng của một người con gái để theo Tràng về. Ở thị, ta thấy được điều đáng trân trọng là niềm khát khao sống mãnh liệt, vì đói quá rồi, khổ quá rồi, thị biết cái đói có thể chực chờ để giết chết mình bất cứ khi nào, nên theo Tràng về cũng là để có miếng ăn, có một nơi để cứu lấy mình, để mình nương tựa. Thị theo Tràng chính là lựa chọn cuối để giành lại sống cho chính mình, nuôi hi vọng vào một điều gì đó dự phần vào thay đổi tình cảnh đói rét của bản thân lúc ấy.
Sau khi theo Tràng về, sự chua chát, chỏng lỏn của thị cũng không còn mà thay vào đó là sự e ấp, ngại ngùng của một người con gái. Nét dịu dàng, nữ tính của Thị bắt đầu được bộc lộ, đó là sự lo lắng, ngập ngừng khi ra mắt mẹ Tràng và sự chu đáo, đảm đang khi cùng bà cụ Tứ dọn dẹp lại căn nhà, khu vườn nho vào sáng hôm sau. Có thể thấy, sâu thẳm bên trong thị cũng là một người con gái trách nhiệm, biết sống vì gia đình, bên trong vẻ ngoài bất cần ấy là một con người khát khao hạnh phúc.
Và đặc biệt, chúng ta cũng không thể nào quên hình ảnh người mẹ hiền còm cõi ở tuổi xế chiều vẫn một lòng lắng lo cho con- bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ trước hết là một người mẹ trách nhiệm, lo làm ăn để nuôi nấng con nên người, biết con mình chẳng được nhanh nhẹn bà cũng dặn lòng, lo lắng cho tương lai của con. Cũng như bao người mẹ khác, cụ Tứ cũng mong con mình được hạnh phúc êm ấm khi đến tuổi lập gia đình.
Khi Tràng dắt thị về, bà cụ Tứ thấy thì vô cùng ngạc nhiên đan xen với nỗi tủi hờn, tự trách. Bà ngạc nhiên vì sự xuất hiện của người con dâu mới, chua xót bởi bà hiểu trong cảnh khốn cùng, đói khổ quá người ta mới chịu theo con mình về nhà. Lắng lo bởi lẽ với một người từng trải như bà cụ Tứ, chắc chắn hiểu được những khó khăn trong tương lai mà cả Tràng và thị phải vượt qua. Lời dặn dò con đầy ấm áp của bà thật xúc động: “Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Là một người mẹ, bà cũng mừng cho hạnh phúc của con, dù lo lắng nhưng trong người mẹ ấy vẫn tin vào ngày mai, vào một thứ ánh sáng tốt đẹp nơi bần cùng tăm tối. Bà cụ Tứ hẳn là một người mẹ trách nhiệm, mẫu mực, giàu lòng bao dung và đức hi sinh mà ai đã từng đọc Vợ nhặt cũng không thể nào quên được.
Bằng việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc cùng hệ thống các nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm sâu sắc cùng ngôn từ giản dị mà giàu sức biểu đạt, Kim Lân đã dựng nên một tác phẩm giàu giá trị nhân văn. Đó là tiếng nói thiết tha, thương cảm và trân trọng những người nông dân nghèo trong xã hội giữa nạn đói năm những năm 1945 đầy đau xót. Đó là tiếng nói căm phẫn trước tội ác “trời không dung, đất không tha” của bọn thực dân xâm lược. Là sự trân trọng những khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người trong gian khổ. Đồng thời, mở ra một con đường để nhân dân vượt qua tăm tối, vươn tới những điều tốt đẹp hẹp, đó là con đường đấu tranh cách mạng.
Kim Lân bằng tài năng trong ngòi bút của mình đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và những thảm cảnh trong những năm tháng đói khổ. Qua đó, bộc lộ chiều sâu tư tưởng của tác phẩm hiện thực vì con người, gắn bó với đời sống con người.
Phân tích Vợ nhặt hay nhất
Nhà văn Pháp Napoli từng nhận định: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên, gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm không cần tìm nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa, nó là cuốn sách hay do người nghệ sĩ có thực tài viết ra”. Vâng, một tác phẩm hay luôn biết cách đưa tâm hồn con người tới địa hạt mới – địa hạt của những yêu thương, những sẻ chia và những khát khao. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện niềm cảm thương trước số phận của con người cùng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường cùng của cái đói.
Lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, truyện ngắn: “Vợ nhặt” đã khắc họa cuộc sống ngột ngạt, bức bối cùng cái nghèo khó, bần cùng của nhân dân ta. Cái đói đã hiện hữu thành hình, thành màu, thành mùi, thành vị khiến con người bị dồn tới mức đường cùng, đẩy họ đến bên bờ vực của cái chết. Chứng kiến thảm cảnh khủng khiếp ấy, ngòi bút nhà văn cất lên tiếng đau của niềm cảm thương trước những số phận bất hạnh. Đồng thời qua đó, ông tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người.
Ngay từ nhan đề bài thơ, nhà văn đã gây cho người đọc một sự tò mò bởi “Vợ nhặt” tức là người vợ tự theo về nhà mà không cần cưới xin. Nhưng nhan đề ấy cũng chính là “thắt nút” của câu chuyện, khắc họa một cách đầy đủ về số phận của các nhân vật. Qua đó phản ánh số phận thê thảm và tủi nhục của con người trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào năm 1945.
Truyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Tràng – một thanh niên nghèo khổ, xấu xí nhưng chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dở chết dở vì đói. Họ kết mối nhân duyên giữa bóng đêm bao trùm của nạn đói. Đêm tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo với tiếng khóc tỉ tê của những nhà có người chết theo gió vọng lại. Bữa cơm giản dị, thô sơ với rau chuối, cháo loãng và muối. Mẹ chồng đãi con dâu và con trai bằng nồi chè nấu bằng cám. Ba mẹ con xoay sang câu chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo và kết thúc truyện bằng hình ảnh “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Tình huống truyện là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người”. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tạo ra một tình huống hết sức độc đáo: anh chàng ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, ế vợ như Tràng mà lại nhặt được vợ chỉ bằng vài câu nói đùa và mấy bát bánh đúc. Điều đó không chỉ gây ngạc nhiên cho những người dân làng, cho mẹ Tràng mà còn cho chính bản thân anh ta. Đây là một tình huống éo le, cảm động nhưng hợp lí bởi chính nạn đói làm cho những mảnh đời cơ cực trôi dạt vào nhau họ mới nên vợ nên chồng. Qua đó tình huống truyện đã làm nổi bật giá trị hiện thực cũng như giá trị nhân đạo: nạn đói đẩy con người tới ranh giới của sự sống và cái chết khiến giá trị con người trở nên rẻ rúng đồng thời làm nổi bật hình ảnh các nhân vật.
Trước hết, truyện đã tái hiện hoàn cảnh cơ cực, nghèo đói đến xác xơ của con người qua hình ảnh của những người dân làng đặc biệt là ba mẹ con Tràng. Cái đói ập đến ngôi làng như một con quỷ dữ nuốt chửng tính mạng của biết bao nhiêu người, nó biến không khí vốn trong lành, tươi mát của một làng quê thanh bình thành không khí ẩm thối của mùi rác rưởi và xác chết: “Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Cái đói ấy cướp đi tiếng cười hồn nhiên của những đứa trẻ trong làng. Cách đó không lâu mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu lại theo anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo khiến cho cái xóm ấy mỗi lúc chiều lại xôn xao lên một lúc. Nhưng niềm vui nhỏ nhoi ấy giờ không còn nữa, nụ cười tắt hẳn trên môi chúng. Chúng ngồi ủ rũ dưới những xó đường, không nhúc nhích. Còn Tràng – nhân vật chính của truyện là một thanh niên ngụ cư nghèo, xấu xí sống hiu quạnh với mẹ trong túp lều dựng trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Sống với kiếp dân ngụ cư, họ bị dân làng coi thường, khinh bỉ, làm công việc hèn hạ như đầy tớ. Và giống như một định mệnh của kiếp nghèo khổ, chàng đã “nhặt” được một người vợ – một người phụ nữ không tên, không tuổi, không quê quán, nhà cửa. Thị ngờ nghệch bị cái đói đẩy ra ngoài đường, nhập vào dòng người tha hương cầu thực, ngồi vêu ra ở kho thóc nhặt những hạt rơi hạt vãi. Bằng ngòi bút tả thực, nhà văn đã khắc họa thành công bức tranh của “ngôi làng đói” trong năm 1945.
Nhưng chính trong cái “hiểm nghèo” ấy, con người đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp: Đó là tình yêu thương con người, niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc và niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Nhà thơ Tố Hữu từng nói: “Có gì đẹp trên đời hơn thế/ Người với người sống để yêu nhau”. Vâng, tình yêu chính là thứ còn xót lại khi con người ta đã mất tất cả, đã rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo. Trong nạn đói khủng khiếp, nhân vật Tràng hiện lên với lòng tốt của một chàng trai sẵn sàng chia sẻ miếng ăn cho người phụ nữ xa lạ. Đặc biệt nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với tình yêu thương con sâu sắc. Cuộc đời sẽ lặng lẽ trôi qua nếu không gặp sự kiện Tràng đưa người phụ nữ xa lạ về làm vợ. Kim Lân đã thể hiện sâu sắc tâm lí của người mẹ nghèo khổ trước sự kiện con trai có vợ: bà cụ hết sức ngạc nhiên. Khi nghe người phụ nữ chào là “u” mà vẫn không hiểu, mắt nhìn nhòe mà vẫn không tin, trong đầu bà xuất hiện một loạt những câu hỏi: “Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?” . Đó là bởi vì bà chưa bao giờ nghĩ một người nghèo khó như con mình lại có vợ. Bà ngạc nhiên không phải sự hoảng hốt, lo lắng mà là niềm ngỡ ngàng trước hạnh phúc quá lớn lao của con trai. Khi đã hiểu ra vấn đề, lòng người mẹ chất chứa bao cơ sự, vừa thương con, vừa xót xa cho chính mình: “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu ba chấm ngưng đọng nỗi nghẹn ngào vì tủi thân, giọt nước mắt thương con lăn trên gò má. Không những thế, bà cụ cảm thấy lo khi nghĩ về hiện thực: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Dù lo lắng nhưng khi nhìn người đàn bà tội nghiệp đứng vân ve tà áo thì lòng bà cụ xót thương vô cùng cho người con dâu. Những suy nghĩ đầy tình thương đầy nhân ái và cảm giác yên tâm đã thay thế nỗi lo trong lòng bà cụ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Tình yêu thương con còn được bộc lộ trong từng suy nghĩ, hành động cụ thể: gọi người phụ nữ là “con”. Chỉ bằng một từ “con” bà đã dang rộng vòng tay đón nhận con dâu giúp con dâu bớt ngượng ngùng. Bà còn tâm sự: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Chỉ với hai chữ “mừng lòng” bà cụ đã coi người con dâu đến với gia đình như một niềm vui. Bà kể về gia cảnh “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng mà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Lời nói tưởng có vẻ lẩm cẩm nhưng lại rất nhân hậu chan hòa phá tan sự ngượng ngùng ban đầu.
Cùng với tình yêu thương, nhà văn thể hiện niềm khao khát hạnh phúc của con người qua nhân vật Tràng và người vợ nhặt. Trước hết khao khát hạnh phúc của Tràng thể hiện qua diễn biến tâm lí và hành động nhân vật. Tràng quyết định nhanh khi đưa người phụ nữ xa lạ về làm vợ: “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo sau này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” sau đó anh ta “chặc kệ”. Bên ngoài anh ta có vẻ hơi thiếu trách nhiệm, liều lĩnh nhưng ở bên trong lại chứa đựng khát khao hạnh phúc thường trực lớn đến mức giúp Tràng vượt lên trên cái đói và cái chết. Khi Tràng đưa vợ về xóm ngụ cư, dù nghèo nhưng vẫn hào phóng khi đãi thị một bữa và mua cho một cái thúng. Niềm hạnh phúc hiện lên trong con mắt và nụ cười tủm tỉm. Trong chốc lát Tràng đã quên đi đói khát tình tứ đi bên người đàn bà của mình, họ nói chuyện với nhau có vẻ chưa hết ngượng ngùng nhưng nhen nhóm hạnh phúc. Khi đưa người vợ nhặt về nhà ra mắt mẹ, Tràng thanh minh cho sự tuềnh toàng của nhà mình do không có bàn tay chăm sóc của người phụ nữ. Tràng muốn mọi sự tốt đẹp hơn khi có vợ, muốn người phụ nữ đó ở lại với mình. Tràng lo lắng sốt ruột khi mẹ chưa về để được công khai hạnh phúc của mình. Anh ta nhìn lén lút người phụ nữ kia, sợ thị đến rồi lại đi, sợ hạnh phúc tuột khỏi tầm tay. Khi mẹ về, Tràng chủ động giới thiệu với mẹ bằng hai chữ “nhà tôi”, “chúng tôi”, “ nhà tôi nó về nó làm bạn với tôi”. Tâm lí của Tràng đã xóa tan sự căng thẳng trong buổi đầu gặp mặt, anh coi đây là một việc nghiêm túc: muốn sống lâu dài với người phụ nữ. Buổi sáng hôm sau thức dậy là thời điểm thích hợp để bộc lộ cảm xúc của Tràng. Một ngày mới đến với cửa sổ tâm hồn mở ra một trang mới hạnh phúc hân hoan: “cảm thấy êm ái lơ lửng như đi từ giấc mơ ra”. So với sự vô tâm mọi khi, hôm nay Tràng nhận thấy sự khác lạ xung quanh mình. Anh ta thật hạnh phúc khi được sống trong không khí giản dị, yên bình của gia đình: vợ quét sân, mẹ dọn cỏ ngoài vườn. Cảnh tượng bình dị ấy khơi gợi trong lòng Tràng cảm giác hạnh phúc gắn bó vô cùng với mình. Không những thế Tràng nhận thấy mình có trách nhiệm với gia đình hơn, hắn cũng muốn bắt tay làm gì đó góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh khao khát hạnh phúc của Tràng, gia đình nhỏ ấy còn được đắp xây nên bởi khao khát của người vợ nhặt. Thị đã vượt lên trên số phận để sống trọn vẹn với hạnh phúc nhỏ nhoi của mình. Cô liều lĩnh theo Tràng về làm vợ và khi bước vào gia đình Tràng, hiểu được gia cảnh của anh, thị ngán ngẩm thở dài nhưng muốn có một gia đình. Thành vợ, thành dâu trong gia đình, thị bắt tay gây dựng gia đình, cuộc sống với mẹ con Tràng: sáng hôm sau thị dậy sớm để thu vén nhà cửa. Nhờ có đôi bàn tay của người vợ, mọi thứ hoàn hóa bẩn thỉu đã bị đẩy lùi, căn nhà trở nên đầm ấm hơn, thậm chí bản thân Tràng cũng thay đổi hẳn: trở thành người con có hiếu và người chồng có trách nhiệm. Có thể nói càng trong hoàn cảnh khó khăn, con người càng trân trọng và tìm kiếm hạnh phúc.
Cùng viết về những người nông dân trong nghèo đói nhưng khác với nhà văn khác, Kim Lân đã gieo vào trong tác phẩm của mình tư tưởng mới: Khi con người ta bị đẩy tới bước đường cùng của cái đói, người ta muốn sống hơn muốn chết. Điều đó được thể hiện rõ nét qua nhân vật người vợ nhặt và bà cụ Tứ. “Người vợ nhặt” vì muốn thoát khỏi cái đói, cái chết, vì muốn tìm đến với sự sống mà đã liều lĩnh theo Tràng về làm vợ. Niềm khao khát sống được nâng lên thành niềm khát khao hạnh phúc làm thay đổi người đàn bà này từ một người chan chát thành người biết vun vén cho hạnh phúc gia đình. Ở thị, sự sống mạnh hơn cả cái chết và thị làm mọi cách để được sống và sống như một con người. Cùng với đó là niềm khao khát sống của bà cụ Tứ. Dù lo lắng cho các con, dù xót xa cho cái khổ nhưng bà cụ vẫn nén lòng mình lại động viên an ủi các con và cũng là động viên chính mình “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà cũng chủ động gây dựng cuộc sống cho mình và các con. Bản thân bà cụ đã thay đổi hoàn toàn: khác với dáng đi lom khom và khuôn mặt u ám hàng ngày bà cụ ra vào nhanh nhẹn rạng rỡ hẳn lên, bà nói chuyện vui, bắt tay dọn nhà cửa. Tất cả thay đổi của bà cụ đều xuất phát từ tình yêu thương và khát vọng sống.
Qua việc tái hiện bức tranh nghèo đói của con người cùng thế giới nội tâm nhân vật, nhà văn tố cáo xã hội thực dân chèn ép, vùi dập con người đồng thời hướng con người tới hướng đi đúng đắn: đến với cách mạng. Điều đó thể hiện qua suy nghĩ nhạy bén của người vợ nhặt hướng về ánh sáng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa”.Hình ảnh kết thúc tác phẩm: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” như lời cảnh tỉnh của nhà văn về con đường mà người nông dân cần đi: con đường cách mạng.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” để lại những rung cảm trong lòng bạn đọc không chỉ bởi niềm cảm thương, khao khát bình dị của con người mà còn bởi nghệ thuật độc đáo. Nhà văn sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mang đậm màu sắc của đồng bằng trung du bắc bộ cùng cách xưng hô thân mật “u – tôi”, gọi vợ là “nhà tôi” gợi lên không khí miền trung du với cuộc sống nghèo khó dân dã. Bên cạnh đó là nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình huống hấp dẫn lôi cuốn bạn đọc ngay từ nhan đề. Qua đó tác phẩm đã thể hiện khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người trong nạn đói.
Phân tích bài Vợ nhặt
Bài làm mẫu 1
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh ra ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm kiếm sống. Ông có sự đam mê và yêu thích văn chương, nên đã bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy cảm hứng từ cuộc sống lam lũ của người nông dân nghèo hoặc các cảnh sinh hoạt văn hóa truyền thống ở vùng thôn quê.
Sau Cách mạng tháng Tám, những tác phẩm truyện ngắn của ông đều viết về làng quê, đây là mảng hiện thực mà ông am hiểu sâu sắc. Nguyên Hồng đã từng nhận xét thì Kim Lân rằng ông là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu nguyên thủy nhất của cuộc sống nông thôn. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm đặc sắc có giá trị và “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của ông, tác phẩm được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ nhưng mãi cho đến sau khi hòa bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập truyện “Con chó xấu xí”.
Lấy bối cảnh là nạn đói năm khủng khiếp 1945, “Vợ nhặt” đã khắc họa một cách trần trụi cuộc sống ngột ngạt, bức bối cùng cái nghèo khó, bần cùng của nhân dân ta thời bấy giờ. Cái đói, cái khổ đã hiện hữu thành hình, thành màu, thành mùi và thành vị khiến con người ta bị dồn tới mức đường cùng, đẩy họ đến bên bờ vực thẳm của cái chết. Chứng kiến thảm cảnh kinh hoàng ấy, ngòi bút của Kim Lân đã cất lên tiếng đau đớn của niềm cảm thương trước những số phận bất hạnh. Đồng thời qua đó, ông cũng lên tiếng tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và bọn phát xít Nhật, ca ngợi khát vọng sống, khát vọng được hạnh phúc và niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của con người.
Ngay từ nhan đề tác phẩm, Kim Lân đã cho người đọc thấy sự tò mò bởi hai từ “Vợ nhặt”, vợ nhặt tức là người vợ được nhặt về mà không cần cưới xin. Nhưng cũng chính nhan đề ấy là “thắt nút” của câu chuyện, khắc họa một cách khá đầy đủ về số phận bất hạnh của các nhân vật. Qua đó phản ánh số phận thê thảm, tủi nhục và sự rẻ rúng của con người trong nạn đói khủng khiếp ấy.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Tràng – một người thanh niên nghèo khổ, có ngoại hình xấu xí nhưng chỉ với vài ba câu hò bông đùa và mấy bát bánh đúc mà lại nhặt được cô vợ đang sống dở chết dở vì đói. Họ đã kết lên mối nhân duyên giữa bóng đêm bao trùm của nạn đói. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong cái bóng tối lạnh lẽo với tiếng khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vọng lại. Bữa cơm giản dị, thô sơ với rau chuối và nồi cháo cám. Bữa cơm đầu tiên ấy do chính tay me chồng chuẩn bị để đãi con dâu và con trai. Khi ăn, ba mẹ con xoay sang câu chuyện Việt Minh phá kho thóc của Nhật để chia cho người dân nghèo và kết thúc câu chuyện là hình ảnh: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đưa ra quan niệm rằng: “Tình huống truyện là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là nó sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống của con người”. Trong “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng một tình huống hết sức độc đáo đó là: anh chàng ngụ cư nghèo khổ, xấu xí như Tràng mà lại “nhặt” được vợ chỉ bằng vài ba câu nói bông đùa và mấy bát bánh đúc. Điều đó không chỉ gây ngạc nhiên cho những người dân làng xung quanh, cho mẹ Tràng mà còn cho chính bản thân của anh ta nữa. Đây là một tình huống éo le, cảm động nhưng lại hết sức hợp lí bởi chính cái nạn đói đã làm cho những mảnh đời cơ cực trôi dạt vào với nhau và họ mới nên vợ nên chồng. Qua đó tình huống truyện đã làm nổi bật lên giá trị hiện thực cũng như giá trị nhân đạo sâu sắc: nạn đói khủng khiếp ấy đã đẩy con người tới cận kề cái chết khiến giá trị con người trở nên rẻ rúng, đồng thời cũng làm nổi bật hình ảnh các nhân vật.
Trước hết, truyện đã tái hiện lên hoàn cảnh cơ cực, khốn khó, nghèo đói đến xác xơ tiêu điều của con người qua hình ảnh của những người dân làng đặc biệt là mẹ con Tràng. Cái đói ập đến ngôi làng giống như một con quỷ dữ nuốt chửng tính mạng của biết bao nhiêu con người, nó đã biến không khí vốn trong lành, tươi mát của một làng quê thanh bình, yên ả thành không khí ẩm ướt hôi thối của mùi rác rưởi và xác chết: “Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Cái đói, cái khổ ấy đã cướp đi tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên của những đứa trẻ trong làng. Cách đó không lâu, trong mỗi buổi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu lại xung quanh anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa thì cù, đứa thì kéo khiến cho cái xóm ấy mỗi lúc chiều lại xôn xao, nhộn nhịp lên một lúc. Nhưng niềm vui nhỏ nhoi ấy bây giờ cũng không còn nữa, nụ cười tắt hẳn trên môi chúng. Chúng ngồi ủ rũ, mặt buồn so dưới những xó đường, không nhúc nhích. Còn Tràng – nhân vật trung tâm của truyện là một thanh niên ngụ cư nghèo, có ngoại hình xấu xí, thô kệch sống hiu quạnh với người mẹ già trong túp lều dựng trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Sống với thân phận là dân ngụ cư, họ bị dân làng coi thường, khinh bỉ, làm những công việc hèn hạ như đầy tớ. Và giống như một định mệnh của cái kiếp nghèo khổ, đói rách, chàng đã “nhặt” được một cô vợ – một người phụ nữ không tên, không tuổi cũng chẳng có quê quán, nhà cửa. Thị bị cái đói đẩy ra ngoài đường, nhập vào với dòng người tha hương cầu thực, ngồi vêu ra ở kho thóc để nhặt những hạt rơi hạt vãi, sống nơi đầu đường xó chợ. Bằng ngòi bút tả thực, Kim Lân đã khắc họa bức tranh của “ngôi làng đói” trong năm 1945 một cách chân thực mà trần trụi.
Nhưng cũng chính trong cái “hiểm nghèo” ấy, con người đã bộc lộ ra những phẩm chất tốt đẹp: Đó chính là tình yêu giữa con người với con người, niềm khao khát được sống, được hạnh phúc và niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng nói:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau”.
Vâng, tình yêu chính là thứ duy nhất còn sót lại khi con người ta đã mất đi tất cả, đã rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn cùng. Trong cái hoàn cảnh đói khát khủng khiếp ấy, nhân vật Tràng hiện lên với sự tốt bụng của một chàng trai sẵn sàng chia sẻ miếng ăn cho người phụ nữ xa lạ mặc dù bản thân anh cũng chẳng dư dả gì. Đặc biệt nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với lòng nhân hậu, khoan dung, hiền từ và tình yêu thương con sâu sắc. Cuộc đời sẽ lặng lẽ, âm thầm trôi qua nếu không gặp sự kiện Tràng đưa một người phụ nữ xa lạ về làm vợ. Kim Lân đã dùng ngòi bút tinh tế của mình để thể hiện sâu sắc tâm lí của người mẹ nghèo khổ trước sự kiện con trai bỗng dưng có vợ: bà cụ đã hết sức ngạc nhiên. Khi nghe người phụ nữ kia chào bà bằng “u” mà vẫn không hiểu, mắt nhìn nhòe đi mà vẫn không tin, trong đầu bà xuất hiện hàng loạt những câu hỏi: “Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?” . Đó là bởi vì bà chưa từng nghĩ một người nghèo khó, xấu xí như con trai mình lại có vợ. Bà ngạc nhiên không phải là sự hoảng hốt, lo lắng mà là niềm ngỡ ngàng trước hạnh phúc quá lớn lao bất ngờ của con trai. Khi đã hiểu ra vấn đề, thì lòng người mẹ lại chất chứa bao cơ sự, vừa thương con lại vừa xót xa cho chính mình: “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu ba chấm được đặt ra như ngưng đọng nỗi nghẹn ngào vì thương xót, vì tủi thân, giọt nước mắt thương con lăn dài trên gò má. Không những thế, bà còn cảm thấy lo lắng khi nghĩ về hiện thực: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Dù lo lắng là vậy nhưng khi nhìn người đàn bà tội nghiệp đang đứng vân vê tà áo thì lòng bà lại xót thương vô cùng cho người con dâu mới này. Sự nhân hậu và cảm giác yên tâm đã thay thế cho nỗi lo trong lòng bà: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Tình yêu thương con của bà còn được bộc lộ trong từng suy nghĩ, từng hành động cụ thể: bà đã gọi người phụ nữ là “con”. Chỉ với một từ “con” đó thôi đã cho ta hiểu rằng bà đã dang rộng vòng tay đón nhận cô con dâu này giúp con dâu bớt ngượng ngùng. Bà còn thủ thỉ tâm sự: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Hai từ “mừng lòng” ấy nói lên việc bà đã coi người con dâu đến với gia đình như một niềm vui. Bà kể về gia cảnh của mình “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng mà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Lời nói tưởng chừng như có vẻ lẩm cẩm nhưng lại rất chan thành, nhân hậu, chan hòa phá tan đi sự ngượng ngùng ban đầu.
Cùng với tình yêu thương, nhà văn đã thể hiện niềm khao khát có được hạnh phúc của con người qua nhân vật Tràng và Thị – người vợ nhặt. Trước hết cái khao khát hạnh phúc của Tràng được thể hiện qua diễn biến tâm lí và hành động anh. Tràng quyết định rất nhanh chóng khi đưa người một phụ nữ xa lạ, chỉ mới gặp 2 lần về làm vợ: “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo sau này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” sau đó anh ta “chặc kệ”. Nhìn bên ngoài anh ta có vẻ hơi thiếu trách nhiệm, liều lĩnh nhưng tận sâu bên trong lại chứa đựng niềm khát khao hạnh phúc thường trực lớn đến mức giúp Tràng vượt lên trên cả cái đói và cái chết. Khi Tràng đưa vợ về nhà, mặc dù nghèo nhưng anh vẫn hào phóng khi đãi thị một bữa ăn no và mua cho một cái thúng. Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy hiện lên trong con mắt và nụ cười tủm tỉm. Trong chốc lát Tràng đã quên đi cái nghèo đói mà tình tứ đi bên người đàn bà của mình, họ nói chuyện với nhau còn chưa hết ngượng ngùng nhưng trong họ đã nhen nhóm ngọn lửa hạnh phúc. Khi về tới nhà, Tràng vội thanh minh cho sự tuềnh toàng, lộn xộn của nhà mình do không có bàn tay chăm sóc của người phụ nữ. Khi thấy bà cụ Tứ mãi chưa về, Tràng lo lắng sốt ruột, anh đang rất mong muốn được công khai hạnh phúc của mình. Anh ta nhìn lén lút người phụ nữ kia, sợ rằng với gia cảnh nghèo khó này thị sẽ bỏ đi, sợ rằng hạnh phúc sẽ tuột khỏi tầm tay. Khi mẹ về, Tràng vui mừng chủ động giới thiệu với mẹ một cách nghiêm túc, trịnh trọng bằng hai chữ “nhà tôi”, “chúng tôi”, “nhà tôi nó về nó làm bạn với tôi”. Tâm lí của Tràng như xóa tan đi sự căng thẳng trong buổi đầu gặp mặt, anh coi đây là một việc hết sức nghiêm túc: anh muốn sống lâu dài với người phụ nữ này. Cảm xúc của Tràng được bộ lộ rõ nét nhất trong buổi sáng hôm sau khi thức dậy. Một ngày mới đến với niềm hạnh phúc hân hoan, Tràng “cảm thấy êm ái lơ lửng như đi từ giấc mơ ra”. So với sự vô tâm như mọi khi thì hôm nay Tràng nhận thấy sự thay đổi khác lạ xung quanh mình. Anh thấy thật hạnh phúc khi được sống trong không khí yên bình với niềm hạnh phúc giản dị của gia đình: vợ quét dọn sân nhà, mẹ thì dọn cỏ ngoài vườn. Cảnh tượng bình dị ấy đã khơi gợi trong lòng Tràng cảm giác hạnh phúc vô bờ. Không những thế Tràng nhận thấy mình cần trưởng thành và có trách nhiệm với gia đình hơn, anh cũng muốn bắt tay vào làm gì đó góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh khao khát hạnh phúc của nhân vật Tràng, gia đình nhỏ ấy còn được vun vén, đắp xây bởi khao khát của người vợ nhặt. Thị đã vượt lên trên số phận ngặt nghèo, bất hạnh để sống trọn vẹn với hạnh phúc nhỏ nhoi của mình. Cô liều lĩnh, bất chấp theo Tràng về làm vợ và khi về hiểu được gia cảnh của Tràng, thị ngán ngẩm thở dài nhưng vẫn muốn có một gia đình. Thành vợ, thành con dâu trong gia đình, thị bắt tay để gây dựng gia đình, cuộc sống với hai mẹ con Tràng: sáng hôm sau thị dậy sớm để thu vén dọn dẹp sân vườn, nhà cửa. Nhờ có đôi bàn tay của người vợ – người phụ nữ mà mọi thứ hoàn hóa bẩn thỉu đã bị đẩy lùi, căn nhà trở nên đầm ấm, có sức sống hơn, thậm chí bản thân Tràng cũng có sự thay đổi lớn: Tràng muốn trở thành người con có hiếu và người chồng có trách nhiệm. Có thể nói càng trong hoàn cảnh khó khăn, con người ta lại càng trân trọng và tìm kiếm hạnh phúc.
Cùng viết về đề tài những người nông dân trong cái nghèo đói nhưng khác với những nhà văn khác, Kim Lân đã gieo vào trong tác phẩm của mình một tư tưởng mới đó là: Khi con người ta bị đẩy tới bước đường cùng của cái đói, cái khổ người ta mới muốn sống hơn muốn chết. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua nhân vật người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Người “vợ nhặt” vì muốn thoát khỏi cái đói, cái chết, vì mong muốn được sống mà đã liều lĩnh theo Tràng – một người đàn ông xa lạ về làm vợ. Niềm khao khát được sống nâng lên thành niềm khát khao được hạnh phúc làm thay đổi người đàn bà này từ một người chan chát, đon đả, chảnh lỏn thành người vợ hiểu chuyện biết vun vén cho hạnh phúc gia đình. Ở thị toát lên một sức sống mãnh liệt nên thị làm mọi cách để được sống và sống như một con người. Cùng với đó là niềm khao khát sống, niềm tin vào tương lai của bà cụ Tứ. Dù lo lắng cho các con, dù xót xa cho cái nghèo, cái khổ nhưng bà vẫn nén lòng mình lại để động viên an ủi các con và cũng là động viên, an ủi chính mình “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà bảo ban, khuyên răn các con và cũng chủ động gây dựng cuộc sống cho mình và các con. Bản thân bà cũng đã thay đổi hoàn toàn với trước kia: khác với dáng đi lom khom và khuôn mặt u ám, xám xịt hàng ngày, nay bà đã ra vào nhanh nhẹn, khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên, bà nói chuyện vui vẻ, bắt tay dọn nhà cửa. Tất cả những thay đổi của bà đều xuất phát từ tình yêu thương và khát vọng sống mãnh liệt.
Qua việc tái hiện khung cảnh nghèo đói, khốn cùng của con người cùng thế giới nội tâm nhân vật, nhà văn đã lên tiếng tố cáo xã hội thực dân đã chèn ép, vùi dập con người đồng thời hướng con người tìm tới con đường cách mạng. Điều đó thể hiện qua câu chuyện của người vợ nhặt: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa”. Và kết thúc tác phẩm là hình ảnh: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” đó như là lời cảnh tỉnh của nhà văn về con đường mà người nông dân cần đi đó chính là con đường cách mạng.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” để lại những rung cảm, những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc không chỉ bởi niềm cảm thương, xót xa, niềm khao khát bình dị của con người mà còn bởi nghệ thuật độc đáo. Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi mang đậm màu sắc của vùng đồng bằng trung du bắc bộ. Bên cạnh đó là nghệ thuật xây dựng tình huống độc đáo, hấp dẫn và lôi cuốn bạn đọc ngay từ nhan đề. Qua đó tác phẩm đã thể hiện được khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt cùng niềm tin vào một tương lai tươi sáng của con người trong nạn đói.
Bài làm mẫu 2
Kim Lân là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam, với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng đã để lại những dấu ấn sâu sắc, có tầm ảnh hưởng lớn trong nền văn học hiện đại nước nhà thế kỷ XX. Trong số gia tài các tác phẩm ít ỏi của Kim Lân, Vợ Nhặt là một trong số những tác phẩm nổi bật và xuất sắc nhất khi nói về số phận người nông dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1944-1945 làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Tuy nhiên Kim Lân không như những cây bút hiện thực cùng thời, đi sâu vào hiện thực tàn khốc của xã hội, mà trái lại tác phẩm của ông chú trọng nhiều vào các giá trị nhân văn, nhân đạo, khai thác và làm sáng rõ những vẻ đẹp của con người thông qua nghịch cảnh cuộc sống để mang đến ánh sáng, niềm tin hy vọng trong những tháng ngày tăm tối nhất.
Nói về Vợ nhặt Kim Lân từng chia sẻ “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Thật vậy Vợ nhặt của Kim Lân là một câu chuyện với tình huống truyện đặc biệt, được xây dựng trên một cái nền cũng đặc biệt không kém khi tất cả khởi nguồn từ một mối hôn nhân kỳ lạ, không mai mối của anh Tràng. Anh tình cờ “nhặt” được vợ trong một lần đi đẩy xe bò thuê, cái sự kiện kỳ lạ đó diễn ra ngay giữa nạn đói kinh hoàng, người chết đói la liệt đầy đường, không khí ảm đạm, chết chóc tang thương bao trùm khắp làng quê. Con người nhếch nhác, thảm hại dìu dắt bồng bế nhau đi khắp các nẻo đường với những hình dung ám ảnh, kẻ sống thì “xanh xám như bóng ma”, người thoi thóp “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, còn “người chết như ngả rạ”, … Đêm xuống “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, cả làng xóm không nhà nào có ánh đèn, lạnh lẽo, xác xơ, khắp đường luôn có những “bóng người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, âm thanh thiểu não của “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Cảnh tượng khủng khiếp ấy Kim Lân không chủ ý nhấn mạnh hay tập trung trong suốt chiều dài tác phẩm mà chỉ đôi lần lướt qua, để lại một vài câu chữ để, nói lên cái hiện thực tàn khốc đang đeo bám lấy từng số phận con người khốn khổ.
Trong cái viễn cảnh kinh hoàng ấy, khi từng con người đang dò dẫm tiến dần tới nghĩa địa, run rẩy bất lực trước lưỡi hái của tử thần thì lại có một đám cưới kỳ lạ diễn ra, một tổ ấm mới được dựng lên với tất cả niềm tin, hy vọng vào tương lai tốt đẹp hơn. Chủ nhân của gia đình ấy chính là Tràng, thị và bà cụ Tứ những con người với những phẩm chất tốt đẹp và sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sẵn sàng vượt lên trên thực tại khó khăn để hướng về một cuộc sống tươi sáng hơn.
Nói về nhân vật Tràng, anh sinh ra vốn dĩ đã thiệt thòi, gia cảnh nghèo khó, diện mạo lại xấu xí, tính tình thì có phần ngờ nghệch, vô tư quá mức. Tràng là người dân ngụ cư, sống cảnh tha hương cầu thực, không ruộng đất, hàng ngày sống bằng nghề kéo xe bò thuê, trong nhà còn có thêm một mẹ già, cuộc sống vô cùng bấp bênh vất vả. Thêm nữa chính do cái xấu xí, nghèo đói mà Tràng mãi chẳng thể có được một tổ ấm riêng, cứ mãi lẻ loi đơn chiếc, vật lộn với cái đói, cái khổ. Là người dân ngụ cư nên Tràng không được cái quyền xuất hiện trong các buổi hội họp thôn xóm, sống cảnh bị xa lánh, coi thường, cuộc đời vừa thảm hại vừa đáng thương vô cùng. Tuy nhiên không vì thế mà Tràng nhụt chí, chán nản, trái lại anh vẫn luôn chăm chỉ lao động, kiếm sống, chấp nhận làm công việc kéo xe vất vả để kiếm tiền nuôi bản thân và chăm sóc người mẹ già yếu trong nhà.
Nạn đói ập đến, Tràng sống khó khăn hơn trước, nhưng cũng chính cái nạn đói ấy đã trở thành cơ duyên cho anh gặp thị, rồi nên duyên với nhau chỉ bằng 4 bát bánh đúc. Trong cuộc gặp gỡ tiền định ấy, trước hết ta thấy được một vẻ đẹp rất đáng quý của nhân vật Tràng. Anh là người nhân hậu, biết thấu hiểu và thông cảm cho những số phận cùng cảnh ngộ, mà tiêu biểu nhất là thị, một người đàn bà vì đói sắp chết mà bất chấp sĩ diện, liêm sỉ đòi ăn. Trước cái cảnh cong cớn, sưng sỉa trách móc của thị vì anh lỡ đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!” thì Tràng chẳng hề khó chịu, bực dọc, trái lại anh sẵn sàng bỏ tiền ra đãi thị an no một bữa tận 4 chén bánh đúc. Ngay trong lúc nạn đói hoành hành, người ta phải lo từng miếng ăn, thì cái tấm lòng hào phóng của Tràng quả thực đáng quý vô cùng.
Ấy rồi từ tấm lòng đồng cảm, thấu hiểu, Tràng đã dần chuyển sang sự xót xa, thương cảm cho người đàn bà tội nghiệp, không nơi nương tựa và cũng sắp bước đến đường cùng trước mắt. Lòng nhân hậu đã khiến anh muốn được che chở, chăm sóc, thành thử trong giây phút Tràng đã thốt ra lời “Này nói đùa chứ có về cùng tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Đó có thể xem là một lời cầu hôn, tuy không lãng mạn nhưng lại vô cùng quý giá và ý nghĩa, nhất là trong thời điểm người ta cần có nhau để nương tựa qua nạn đói, trở thành cọng rơm cứu mạng của thị. Ấy rồi, thị nhận lời chính thức trở thành vợ Tràng, một người vợ nhặt, không mối mai sính lễ.
Lúc này đây, Tràng dường như trưởng thành hơn, những nét đẹp trong tâm hồn anh lại càng được thể hiện rõ nét, Tràng biết săn sóc, để ý đến cảm nhận của người vợ mới cưới, anh dẫn thị vào chợ tỉnh ăn một bữa no nê, rồi lại dẫn thị đi mua một cái thúng nhỏ, với vài món đồ lặt vặt để thị về nhà chồng cho đỡ ngượng ngùng. Đó là một sự tinh tế, thấu hiểu và bao dung hiếm có mà không phải bất kỳ một ai, một người đàn ông nào cũng có thể có được. Để mừng cho tân hôn, Tràng không tiếc bỏ ra hai hào để mua dầu về thắp sáng trong nhà, cố gắng cho thị một ngày cưới tuy không đầy đủ nhưng cũng có được những phần tươi sáng, vui vẻ, tạm xua đi những cái tối tăm, mệt nhọc đang chờ phía trước.
Trên đường dẫn thị về nhà, tâm trạng của Tràng tràn đầy những cảm xúc phấn khởi và hạnh phúc “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Thậm chí anh vui sướng đến độ “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể nói rằng cái đám cưới kỳ lạ với thị là bước ngoặt lớn của đời Tràng, mở ra cho anh một cánh cửa mới, một con đường mới, đem đến một làn gió tươi sáng và tràn đầy hy vọng trong tâm hồn chàng trai trẻ, dù rằng tương lai phía trước còn nhiều chông gai. Đến khi đưa thị về nhà giới thiệu với mẹ, lòng Tràng không tránh khỏi những cảm xúc lo lắng, sốt ruột, anh thưa chuyện với mẹ bằng một thái độ nghiêm túc, cẩn trọng mong mẹ xuôi lòng. Điều đó cho thấy rằng Tràng đang rất trân trọng và mong chờ vào cuộc hôn nhân, một cuộc sống mới hứa hẹn sẽ cho Tràng cảm giác hạnh phúc, một mái ấm gia đình trọn vẹn, tràn ngập yêu thương, để anh cũng như bao người đàn ông khác được làm chồng làm cha, bước vào một cuộc đời mới lắm thách thức nhưng cũng nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc.
Sau đêm tân hôn, Tràng dường như thay đổi hẳn, trưởng thành, chững chạc và nhận thức được những trách nhiệm và vị trí của bản thân trong gia đình, anh vừa cảm thấy hạnh phúc vừa cảm thấy bản thân có trách nhiệm phải xây dựng gia đình êm ấm, mang lại hạnh phúc cho vợ con, nuôi sống gia đình. Điều ấy thể hiện rõ ràng trong suy nghĩ “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” đồng thời Tràng lập tức biến nó thành hành động khi “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”. Trong bữa cơm đón dâu mới, Tràng nghĩ về việc phá kho thóc Nhật, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, cũng bộc lộ những suy nghĩ mới, lối đi mới trong tương lai của Tràng và của cả rất nhiều những người nông dân khác, nhằm giải thoát cho chính bản thân khỏi nạn đói kinh hoàng, khỏi sự áp bức của kẻ thù.
Đối với nhân vật thị, sự xuất hiện của người phụ nữ này dường như lúc đầu đã không gây được mấy thiện cảm, bởi cái sự cong cớn, sưng sỉa, bất chấp liêm sỉ vì miếng ăn. Thế nhưng đi sâu vào thấu hiểu cho hoàn cảnh của thị trái lại người ta lại thấy thương xót nhiều hơn, thị đã đi đến bước đường cùng, đang bước dần đến nghĩa địa, ngay cái lúc ấy người ta chỉ mong được sống, khao khát sống đến mãnh liệt, bằng mọi giá phải sống. Chính lẽ đó khi bắt được cơ hội đẩy xe bò để được ăn, thị đã không chần chừ bất chấp cái thân thể tàn tạ, còn chút hơi sức. Nhưng Tràng thế mà lại quên đi mất lời đùa của mình, thành thử thị tưởng mình bị lừa, thị buồn, thị xót cái công sức và ấm ức vì cuộc đời khốn khổ sắp đến hồi kết. Những cái lúc ấy sao người ta còn có thể bình tĩnh, mà không sưng sỉa cong cớn lên cho được, ấy rồi nhờ vậy mà thị được ăn, được sống, thậm chí có cả một người chồng, một mối nhân duyên có phần kỳ lạ giữa cái nạn đói khủng khiếp.
Thị trở thành người vợ theo không, không mối mai, không cỗ bàn, không đồ sính lễ, tủi nhục, thế nhưng trong cái hoàn cảnh ấy thị dù tủi hổ, nhưng cái thị cần nhất vẫn là được sống, thị cần một chỗ dựa, một mái ấm để nương vào, để thoát khỏi cái cảnh bèo dạt của mình. Khi về nhà chồng, thị bỗng thay đổi thành một con người khác, tận mắt chứng kiến cái “nhà” thực chất chỉ là một căn lều rách nát của Tràng, mắt thị tối lại, thế nhưng người đàn bà ấy chẳng hề tỏ ra sự thất vọng, ảo não trong lòng, mà trái lại vẫn tiếp tục cùng Tràng vào nhà đợi mẹ chồng về.
Thị trở nên khép nép, lễ phép, không còn cái vẻ đanh đá, chỏng lỏn khi mới gặp Tràng, trước sự dặn dò, thương xót của bà cụ Tứ, thị dịu dàng, yên lặng lắng nghe, và tiếp thu, sẵn sàng cùng Tràng xây dựng một mái ấm với những niềm tin mãnh liệt về một tương lai tươi sáng. Sau đêm tân hôn cảnh thị dậy sớm chuẩn bị cơm nước, quét dọn nhà cửa, vườn tược, gánh nước, hong khô đồ,… đã mang đến hình ảnh đẹp của một người phụ nữ biết vun vén, tần tảo, hy sinh, đang cố gắng từng ngày để xây dựng cuộc sống mới ấm êm, hoàn toàn rũ bỏ cái cảnh lay lắt, lang thang đầu đường xó chợ.
Một nhân vật ấn tượng và đáng chú ý nữa trong truyện chính là bà cụ Tứ, nhân vật đại diện tiêu biểu nhất cho một thế hệ người phụ nữ Việt Nam thế kỷ trước. Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, có cuộc đời nhiều đắng cay vất vả, một tay vất vả nuôi anh Tràng khôn lớn, cho đến lúc già cả lại phải chịu cảnh trở thành dân ngụ cư, lang bạt nơi xứ người, chịu cảnh đói kém hành hạ. Không chỉ chịu những nỗi khổ về thể xác, bà cụ Tứ còn luôn sống trong cảnh dằn vặt với nỗi khổ tâm tự trách vì bản thân nghèo quá không thể lo nổi cho người con trai một tấm vợ tử tế, phải nhìn cảnh con mình khổ sở, đơn độc mưu sinh.
Ở nhân vật này ta thấy hiện lên rõ nét nhất ấy là tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Khi thấy anh Tràng dẫn một người đàn bà lạ mặt về nhà, bà không vội vã dò xét, tra hỏi mà trái lại bà để cho con trai mình tự lên tiếng, sau khi hiểu ra biết bao nhiêu là cớ sự, bà chẳng trách con tự tiện quyết định chuyện hôn nhân mà cái bà cụ lo lắng nhiều nhất lại là “liệu rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không”. Lòng người mẹ vẫn muôn đời suy nghĩ cho con, thấy anh Tràng lấy vợ trong cảnh đói kém, làng xóm tràn ngập một màu u ám, tiêu điều, lòng cụ Tứ lại càng thêm nhiều đau xót. Xót con vì nghèo khó mà chẳng có được một đám cưới tử tế, xót con vì phải cưới vợ trong cái cảnh sống hôm nay mà chẳng biết được ngày mai, cũng lại xót xa cho chính cuộc đời làm mẹ mà chẳng thể làm gì để con mình được sung sướng đầy đủ. Thế rồi sau tất cả những bộn bề suy nghĩ, lo toan, lòng cụ Tứ dần lắng lại, cụ sốc lại tinh thần, giấu nhẹm đi những lo lắng trong lòng để tác thành cho mối duyên của các con. Bà cũng hết lòng an ủi, động viên Tràng và thị với những lời nói đầy hy vọng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”, tạo lập cho họ động lực, lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn trong nay mai, chỉ cần họ cố gắng hết sức, cùng nhau vượt qua khó khăn, vượt qua được nạn đói kinh hoàng này.
Bên cạnh tấm lòng thương yêu con sâu sắc, cụ Tứ còn hiện lên với tấm lòng nhân hậu, bao dung biết thương cảm cho những số kiếp người bất hạnh, mà tiêu biểu nhất là thị, người con dâu mới cưới. Khi nhìn đến người đàn bà với bộ dạng tả tơi, thảm hại, đang rụt rè đứng đợi sự chấp nhận của bà, lòng bà bỗng dấy lên nhiều những nỗi niềm thương cảm, nghĩ rằng “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà vội giục thị ngồi xuống cho đỡ mỏi chân, rồi tỉ tê, tâm sự chuyện hoàn cảnh gia đình, về chuyện không thể làm dăm ba mâm cỗ cưới khiến thị thiệt thòi, mong rằng thị có thể hiểu và thông cảm cho những nỗi khó khăn của mẹ con bà, mà thương yêu lấy Tràng. Đối với bà chỉ cần vợ chồng Tràng sống với nhau hạnh phúc “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, rồi nhìn lại cái cảnh đói kém mà lòng nặng trĩu những nỗi lo lắng, thương cảm về cuộc đời của Tràng và thị.
Bà cụ Tứ còn hiện lên với vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn, trở thành người truyền động lực, cảm hứng cho con trai và con dâu, giúp họ có thêm sức mạnh, niềm tin vào một cuộc đời khấm khá và bớt khó khăn hơn trong tương lai. Điều đó được bộc lộ rất rõ thông qua cảnh bà động viên vợ chồng Tràng lúc mới về, và cả trong cái cảnh bữa cơm sáng bà cụ liên tục kể những câu chuyện vui, kể chuyện là ăn, nuôi gà,… Dù rằng những dự định, những mong ước ấy có vẻ khá xa xôi và khó khăn để thực hiện, thế nhưng nó vẫn đem đến cho câu chuyện những tia sáng ấm áp, xua tan bớt cái sự thảm hại, u ám, tiêu điều của làng quê trong nạn đói kinh hoàng, cũng mở ra cho các nhân vật những con đường mới mẻ, đầy hy vọng.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc khi viết về số phận của người nông dân giai đoạn trước cách mạng, đặc biệt là trong nạn đói kinh hoàng. Đối với tác phẩm này, có thể tóm lược bằng mấy câu “Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại loé lên một tia sáng về đạo đức, danh dự. Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy”. Cả Tràng, thị và bà cụ Tứ đều là những nạn nhân khốn cùng của nạn đói, cũng đứng trước những ám ảnh về cái chết đang tới gần, thế nhưng họ không tuyệt vọng, họ vẫn cố sống từng ngày, họ vẫn xây dựng gia đình, vẫn cùng nhau cố gắng, suy nghĩ về chuyện tương lai, và tin tưởng rằng mình sẽ vượt qua được cái đói. Đó chính là ý nghĩa nhân văn sau cùng mà Kim Lân muốn truyền tải, dù trong hoàn cảnh khốn cùng nào thì con người ta vẫn luôn lóe lên những tia sáng của phẩm hạnh tốt đẹp, chúng không bị chôn vùi bởi thực tại mà càng vì thực tại mà trở nên rõ nét hơn.
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ngắn gọn
Phân tích Vợ nhặt – Mẫu 1
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vẽ lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bây giờ. Hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đạm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cái nghèo đè nén đến chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh Tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt đầu không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tình thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.
Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn. Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lí nhân vật sắc sảo,độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.
Xem thêm: Mở bài về tác phẩm Vợ Nhặt
……………
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích Vợ nhặt của Kim Lân
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân Sơ đồ tư duy & 20 bài phân tích Vợ nhặt của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.