Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình ảnh Rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc tác phẩm Rừng xà nu tổng hợp dàn ý và 3 bài văn mẫu hay được đánh giá cao. Với dàn ý chi tiết xúc tích, bài văn được xây dựng đầy đủ, mạch lạc, rõ ràng từng phần các bạn lớp 12 có thể dễ dàng lựa chọn tham khảo cho bài văn của mình sắp viết.
Phân tích rừng xà nu đoạn đầu và cuối tác phẩm chúng ta thấy được sức sống bất diệt của cây xà nu. Hình tượng cây xà nu mang giá trị thẩm mĩ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng. Vậy sau đây là 3 bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn phân tích Rừng xà nu, phân tích hình tượng rừng xà nu.
Đề bài: Cảm nhận hình ảnh rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc tác phẩm (truyện ngắn Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành).
Dàn ý hình ảnh rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc tác phẩm
a. Giới thiệu hai tác giả, tác phẩm.
b. Phân tích hình ảnh Rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc truyện.
b1. Hình ảnh rừng xà nu mở đầu truyện:
* Tả thực: Cây xà nu là cây thuộc họ thông, mọc thành rừng ở Tây Nguyên, mọc thẳng, tán lá vươn cao, thân cây vạm vỡ, có sức sống mãnh liệt.
– Mở đầu tác phẩm là cánh rừng xà nu trong tầm đại bác của giặc, chúng bắn đã thành lệ mỗi ngày hai lần, hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Như vậy, ngay trong câu đầu tiên của tác phẩm, NN đã dựng lên một sự sống trong tư thế đối mặt với cái chết, một sự sinh tồn đang đứng trước mối đe dọa của diệt vong. Vậy, liệu cây xà nu bị tàn phá như thế có bị diệt vong hay không?
– Không. Vì cây xà nu có sức sống mãnh liệt mà không đại bác nào có thể huỷ diệt được (cạnh một cây ngã gục có 4,5 cây con mọc lên hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời; Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng;…)
* Nghĩa biểu tượng:
– Cánh rừng xà nu bị tàn phá dưới tầm đại bác của giặc trở thành biểu tượng cho đau thương của những con người ở làng Xô Man. (Những con người sống dưới tầm đại bác, cũng như xà nu thân thể và trái tim anh Xút bị treo cổ, bà Nhan bị chặt đầu, dân làng sống trong sự lùng sục của bọn thằng Dục, Tnú bị giặc bắt và tra tấn,. ..)
– Cây xà nu còn biểu tượng cho sức sống bất diệt và những phẩm chất cao đẹp của người dân làng Xô Man.
+ Sức sống bất diệt: Sức sống bất diệt của cây xà nu có ý nghĩa biểu tượng cho sức sống bất diệt của những người ở làng Xô Man. Tác giả miêu tả 3 lứa cây xà nu tiêu biểu cho 3 thế hệ người dân làng Xô Man
- Cụ Mết có bộ ngực “căng như một cây xà nu lớn”, tay “sần sùi như vỏ cây xà nu”. Cụ Mết chính là cây xà nu cổ thụ hội tụ tất cả sức mạnh của rừng xà nu.
- Tnú cường tráng như một cây xà nu được tôi luyện trong đau thương đã trưởng thành mà không đại bác nào giết nổi.
- Dít trưởng thành trong thử thách với bản lĩnh và nghị lực phi thường cũng giống như cây xà nu phóng lên rất nhanh tiếp lấy ánh mặt trời.
- Cậu bé Heng là mầm xà nu đang được các thế hệ đi trước truyền cho những tố chất cần thiết để sẵn sàng thay thế trong cuộc chiến cam go còn có thể phải kéo dài “năm năm, mười năm hoặc lâu hơn nữa”.
+ Phẩm chất cao đẹp: Cây xà nu trở thành biểu tượng cho lòng yêu tự do (cũng như cây xà nu phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh mặt trời) ; tình yêu thương đoàn kết, sức mạnh của Tây Nguyên (cũng như các cây xà nu tập hợp thành rừng, bảo vệ, che chở cho nhau)
=> Rừng xà nu mang nghĩa biểu tượng cho: Con người ở làng Xô Man hẻo lánh, cho Tây Nguyên, cho cả miền Nam, cho cả dân tộc Việt Nam trong thời kì chiến đấu chống đế quốc tuy đau thương nhưng quyết tâm làm tất cả để giành sự sống cho Tổ quốc mình.
Tóm lại: Ở đoạn mở đầu ấn tượng còn lưu lại trong lòng người đọc là sức sống bất diệt của cây xà nu, đó cũng là cảm hứng chủ đạo của nhà văn Nguyên Ngọc khi viết về hình ảnh cây xà nu.
b 2. Hình ảnh rừng xà nu kết thúc truyện:
Đưa tiễn Tnú ra đi sau một đêm về thăm làng, cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu cạnh con nước lớn. “Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”
Như vậy, kết thúc tác phẩm cũng là sức sống bất diệc của cây xà nu với hình ảnh “rừng xà nu nối tiếp chạy tới chân trời”.
Tóm lại: trong truyện Rừng xà nu, cách thức mở đầu và kết thúc giống nhau nhằm nhấn mạnh đến sức sống của cây xà nu biểu tượng cho sức sống bất diệt của con người VN nói chung trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
c. Liên hệ đến cách thức mở đầu và kết thúc truyện ngắn Chí Phèo:
Mở đầu truyện ngắn Chí Phèo là hình ảnh cái lò gạch cũ, vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng. Đến cuối tác phẩm, lúc Chí Phèo tự sát, thị Nở nhìn ngay xuống bụng thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…
Cách thức mở đầu và kết thúc như vậy gợi ra sự quẩn quanh bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống lương thiện của người nông dân.
d. Tổng kết:
Hoàn cảnh lịch sử xã hội chi phối rất lớn đến nội dung sáng tác của nhà văn Rừng xà nu ra đời sau 1945 (cụ thể là trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ) với đường lối lãnh đạo của Đảng, niềm tin của nhân dân nên dù có đau thương mất mát thì người ta vẫn tin vào sự tất thắng của cách mạng
Hình ảnh rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc tác phẩm – Mẫu 1
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Chẳng biết từ bao giờ, mảnh đất xứ người đã trở thành quê hương thứ hai của bao người xa quê. Quang Dũng đã từng lưu luyến với mảnh đất Tây Bắc với những con người nồng hậu, Tố Hữu cũng vấn vương trước cuộc chia tay lưu luyến với người dân Việt Bắc. Và đến với Nguyễn Trung Thành, ta lại thấy một cảm giác gắn bó máu thịt của ông với mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Đọc “Rừng xà nu”, ta không chỉ thấy tình cảm sâu đậm của ông với con người Tây Nguyên mà còn thấy sự gắn bó và tình yêu của ông với núi rừng. Có lẽ cũng vì lẽ ấy mà hai chi tiết đầu và cuối tác phẩm “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.” và “Ba người đứng ở đó trông trông ra xa đến hút tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” như một bức tranh thu nhỏ cứ vấn vương mãi trong lòng người đọc.
Nguyễn Trung Thành sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam. Những năm tháng lăn lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã giúp ông hiểu biết sâu sắc về Tây Nguyên để rồi từ đó, những tác phẩm có tiếng vang ra đời như tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”, tập truyện và kí “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. “Rừng xà nu” được viết năm 1965, là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyên Ngọc viết trong những năm tháng chống đế quốc Mĩ. Tác phẩm là câu chuyện về con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ nhưng bên cạnh đó là hình ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận mà hai chi tiết trên đã góp phần thể hiện rõ điều đó.
Trước hết ta cần hiểu “chi tiết” là những tiểu tiết có trong tác phẩm thể hiện tư tưởng của truyện. Chi tiết cũng có thể là những yếu tố nhỏ của tác phẩm nhưng thể hiện được tính cách của nhân vật, bản chất của vấn đề. Chi tiết có thể xuất hiện trong thơ hoặc văn xuôi bao gồm chi tiết miêu tả thiên nhiên, miêu tả không gian, chi tiết miêu tả tính cách, diễn biến nội tâm của nhân vật…góp phần quan trọng thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Hai chi tiết đầu và cuối trong tác phẩm “Rừng xà nu” đều là hai chi tiết có chung nội dung là miêu tả vẻ đẹp bất tận của cánh rừng xà nu nhưng được đặt ở hai vị trí khác nhau, phải chăng dụng ý nghệ thuật của hai chi tiết cũng khác nhau?
Mở đầu tác phẩm là bức tranh miêu tả cánh rừng xà nu giữa mưa bom bão đạn vẫn có sức sống kiên cường mạnh mẽ “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Nguyễn Trung Thành đã nói về sức sống ấy bằng một chi tiết có sức khái quát cao “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.” Trong bức tranh ấy có cả cái đau thương của “những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão”, có cả “những cây vừa lớn ngang tầm ngực người đã bị đại bác chặt đứt làm đôi”. Nhưng ở đó lại có cả những cây với “những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng” và những cây mới mọc “ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời ấy mở ra một khoảng không gian rộng lớn với những cánh rừng xà nu cứ liên tiếp nhau trải dài. Trong thực tế cây xà nu có sức sống mãnh liệt và thường mọc thành rừng nên với Nguyễn Trung Thành, cho dù bom đạn có dội xuống, có tàn phá thì những cây xà nu ấy cứ mãi vươn lên, có sức sống dẻo dai, mãnh liệt.
Khép lại tác phẩm, nhà văn không dùng hình ảnh người anh hùng Tnú giết giết chết tên giặc trong đồn địch hay ánh lửa đỏ rực trong đêm đồng khởi. Nguyễn Trung Thành kết lại câu chuyện bằng hình ảnh của những cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận như một khúc vĩ thanh cứ ngân vang trong lòng người đọc. Cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường tham gia lực lượng giải phóng. Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa, lúc này cánh rừng xà nu không được miêu tả trực tiếp từ cái nhìn của tác giả mà được khắc họa qua cái nhìn của các nhân vật. “Ba người đứng ở đó trông trông ra xa đến hút tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Chi tiết cuối ấy như được mở cả về chiều rộng và về chiều sâu. Là một bức tranh thiên nhiên nhưng nó không mang một khoảng không gian nhất định. Không phải “hết tầm mắt”- không phải chỉ dừng lại ở cái hữu hạn trong khả năng của con người mà là “hút tầm mắt” nghĩa là bức tranh ấy không chỉ bao la về bề rộng mà còn thăm thẳm về bề sâu, bề xa của nó. Không còn dừng lại ở “những đồi xà nu” mà là “những rừng xà nu”. Không gian được mở rộng, trải dài vô tận.
Hai chi tiết được đặt ở đầu và cuối tác phẩm tạo nên một kết cấu chặt chẽ, đầu cuối tương ứng. Kiểu kết cấu này ta cũng đã từng bắt gặp trong “Chí Phèo” của Nam Cao. Nếu như trong “Chí Phèo” hình ảnh về một lò gạch bỏ hoang gợi ra nhiều ám ảnh day dứt người đọc về sự quẩn quanh bế tắc của người nông dân thì hai chi tiết trong tác phẩm “Rừng xà nu” lại mang đầy sức gợi mở. Đầu tác phẩm rừng xà nu gợi ra câu chuyện của cuộc đời, con người trong chiến đấu, kết thúc tác phẩm rừng xà nu kết lại câu chuyện nhưng là kết lại đau thương và mở ra khung cảnh mới- khung cảnh ngập tràn sắc xanh của sức sống bất diệt.
Hình tượng rừng xà nu xuất hiện ở đầu và cuối tác phẩm còn góp phần khắc họa hình tượng rừng xà nu xuyên suốt tác phẩm. Trước hết nó mang nét đặc trưng của con người Tây Nguyên, gắn bó với đời sống của dân làng, nó có mặt trong mọi sinh hoạt hàng ngày, có mặt trong công cuộc chiến đấu. Đó còn là hình ảnh biểu tượng cho những đau thương mất mát cũng như sức sống kiên cường của con người Tây Nguyên. Hình ảnh xà nu ngày càng bát tận hơn ở chi tiết cuối ấy như để khẳng định cánh rừng xà nu kia dù phải chịu bao sự tàn phá của kẻ thù thì vẫn cứ mãi vươn lên. Và đó cũng chính là sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, bao người đã hi sinh và thế hệ sau lại nối tiếp. Nếu như ở chi tiết đầu là “những đồi xà nu nối tiếp đến chân trời” như sự tập hợp của nhiều cá thể làm nên sức mạnh của tập thể thì chi tiết ở cuối tác phẩm lại là “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” – là sự tập hợp của một khối đoàn kết, cũng có thể hiểu đây là sự tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, những thế hệ sau càng đi xa hơn thế hệ trước.Trong tác phẩm đó là sự tiếp nối của những con người trên mảnh đất Tây Nguyên. Thế hệ đi trước như cụ Mết rồi đến anh Quyết, Tnú và Mai và thế hệ nối tiếp là Dít và bé Heng. Như vậy chi tiết cuối của tác phẩm đã mang ý nghĩa khái quát sâu xa hơn, như một khúc vĩ thanh ca ngợi vẻ đẹp bất tận, sức sống bất diệt của cả thiên nhiên và con người giống như:
“Một cây đổ cả rừng cây lại mọc
Người với người đã mấy vạn mùa xuân.”
Nguyễn Trung Thành.
Một ý nghĩa khác mà hai chi tiết mang lại trong hai tác phẩm là không khí Tây Nguyên đậm đà. Hình ảnh cây xà nu ấy đã mang lại nét đặc trưng riêng cho mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nói đến mỗi vùng đất, ta thường nghĩ ngay đến những nét riêng. Những người dân ở Phú Thọ người ta thường tự hào về cây cọ “xòe ô che nắng” ở quê mình, người dân Bến Tre thì tự hào bởi những trái dừa mát lịm thì với người dân Tây Nguyên, bên cạnh cây Kơnia, người ta còn nhắc đến những cánh rừng xà nu xanh tốt. Cây xà nu mang đậm phong vị Tây Nguyên nó cứ hiện lên trên trang văn của Nguyễn Trung Thành ngày càng rõ nét, chân thực như mang chính hơi thở của mảnh đất này.
Như vậy, mở đầu là hình ảnh cây xà nu trong bom đạn nhưng bạt ngàn màu xanh bất diệt. Kết lại tác phẩm cũng là màu xanh trải dài của những cánh rừng xà nu trải dài của những cánh rừng xà nu nối tiếp tới chân trời. Có thể nói hai chi tiết đã gửi đến cho người đọc một ấn tượng sâu đậm về khung cảnh rừng xà nu bạt ngàn bất tận. Hơn mười lần hình ảnh cây xà nu được nhắc đến trong tác phẩm đủ để minh chứng mối quan hệ mật thiết giữa rừng xà nu và cuộc sống con người. Phải chăng tình cảm mà tác giả gửi gắm qua hình ảnh cây xà nu cũng chính là niềm tự hào về vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Nguyên?
Viết về cánh rừng xà nu nói chung với hai chi tiết này nói riêng, Nguyễn Trung thành đã sử dụng bút pháp của khuynh hướng sử thi. Nhà văn đã tô đậm vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên trên mảnh đất Tây Nguyên anh hùng.Nó gợi ra vẻ đẹp của những cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận.
Hai chi tiết được nhắc đến thực sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chủ đề tư tưởng của tác phẩm. “Rừng xà nu” là một thiên truyện mang ý nghĩa của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại. Với lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ hào hùng của núi rừng, của con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu có lần nói đại ý : Người cầm bút có biệt tài, có thể chọn trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc với một vài diễn biến sơ sài nhưng đó có khi lại là cái khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại. Phải chăng Nguyễn Trung Thành cũng đã tìm thấy cái khoảnh khắc ý nghĩa ấy khi ông miêu tả những cánh rừng xà nu cứ mãi nối tiếp nhau chạy đến chân trời.
Hình ảnh rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc tác phẩm – Mẫu 2
Nếu súng là phương tiện đấu tranh của người lính thì nhà văn lại dùng chính ngòi bút của mình để làm vũ khí chống lại giặc ngoại xâm. Trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhà văn Nguyễn Trung Thành không chỉ có những trải nghiệm phong phú của một người lính mà còn có nguồn chất liệu hiện thực dồi dào về cuộc chiến tranh. Những tác phẩm của ông đều tái hiện được không khí dữ dội của cuộc kháng chiến và vẻ đẹp anh hùng bên trong mỗi con người Việt Nam. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông có thể kể đến là “Rừng xà nu”. Qua tác phẩm “Rừng xà nu” nhà văn đã khắc họa thành công hình ảnh của cây xà nu, qua đó làm nổi bật vẻ đẹp sử thi của những con người anh hùng làng Xô Man.
Nguyễn Trung Thành (1932) là nhà văn có duyên nợ với đất rừng Tây Nguyên cho nên những sáng tác của ông đều mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Tác phẩm “Rừng xà nu” được sáng tác năm 1965 là tác phẩm nổi tiếng nhất trong số những sáng tác của Nguyễn Trung Thành ở những năm kháng chiến chống Mỹ. Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm đã mang lại một không khí đậm đà hương vị núi rừng Tây Nguyên.
Xà nu là một loài cây họ thông, nhựa và gỗ của chúng đều đem lại giá trị sử dụng cao, chúng có gắn bó mật thiết với con người Tây Nguyên. Bất cứ cuộc chiến tranh nào đi qua cũng để lại muôn vàn sự đau thương và mất mát. Với cây xà nu cũng vậy, chúng phải hứng chịu hầu hết đạn đại bác nhưng vẫn có sức sống mãnh liệt, kiên cường. Hình ảnh rừng xà nu xuất hiện từ ngay những dòng đầu của tác phẩm và được nhắc lại nhiều lần đã tạo ấn tượng ám ảnh trong lòng người đọc. Rừng xà nu rộng lớn, đông đảo, hùng vĩ, là nạn nhân của bom đạn nên cả rừng không có cây nào là không cây nào bị thương. Rừng xà nu nằm trong sự hủy diệt tàn bạo của chiến tranh khiến cho “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”, “ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Bởi vậy cây xà nu không chỉ được biết đến là hiện thân của cái đẹp mà chúng còn phải gánh chịu nhiều đau thương giống như những người lính phải từ bỏ sinh mạng trong chiến tranh.
Đau thương là thế, hi sinh là thế nhưng những cây xà nu vẫn rất mạnh mẽ để vươn lên. Chúng khao khát sống đến mãnh liệt, ham ánh sáng mặt trời đến mức “nó phóng rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”. Nhờ có sức sống kiên cường, bất khuất, bất diệt mà những thế hệ xà nu cũng vì thế mà chúng cứ nối tiếp nhau. “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Hình ảnh của cây xà nu đã giúp ta gợi nhớ đến hình ảnh cây tre Việt Nam “Chẳng may thân gãy cành rơi/ Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng”. Từ đó, ta thấy được ý chí chiến đấu bền vững, quật cường của nhân dân ta khi lớp này già đi thì đã có lớp trẻ khác thay thế. Bên cạnh những cây xà nu con không chịu được vết thương thì vẫn có những cây vượt lên được hơn cao đầu người khiến cho bom đạn của kẻ thù không thể nào hạ gục được chúng, chúng lớn nhanh thật nhanh để thay thế cho những cây đã ngã. Hình ảnh cây xà nu chính là hình ảnh ẩn dụ cho niềm ham muốn tự do tha thiết của người dân Tây Nguyên vì họ luôn hướng về phía ánh sáng của Đảng, của cách mạng với niềm tin mãnh liệt vào một ngày giải phóng.
Dù phải hi sinh trước bom đạn chiến tranh nhưng cây xà nu vẫn luôn là bức tường thành vững chắc bảo vệ, che chở cho người dân Tây Nguyên. Rừng xà nu còn là ẩn dụ cho những người lính chiến đấu bảo vệ đất nước: “Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng”. Sự hy sinh thầm lặng của rừng cây xà nu đã khiến cho người đọc có những liên tưởng xa xăm. Để có được hòa bình như ngày hôm nay thì đã có rất nhiều vị anh hùng đã phải đánh đổi cả sự sống và nhiều thứ tình cảm thiêng liêng khác để một lòng đánh bại quân thù. Nhiều cây xà nu mọc cùng nhau trên một ngọn đồi hết lớp này qua lớp khác tạo thành rừng xà nu chính là vẻ đẹp của sự đông đảo và vững chắc khiến cho không gì có thể đánh bại được chúng: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời”. Rừng xà nu là biểu tượng của Tây Nguyên nói riêng và của toàn dân tộc Việt Nam nói chung vì chúng có những phẩm chất đáng trân trọng giống như con người Việt Nam vậy.
Cây xà nu là hình tượng thẩm mĩ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng tất cả niềm say mê , tin yêu và trân trọng. Nghệ thuật dùng từ, các biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, lời văn giàu sức tạo hình và biểu cảm đã khiến cho cây xà nu trở thành một sinh vật sống động gợi cho người đọc nhiều suy tưởng về lịch sử chống giặc oai hùng của dân tộc. Ẩn sâu sau những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh tốt chính là tinh thần đoàn kết, cùng nhau chiến đấu của buôn làng Tây Nguyên.
Hình tượng cây xà nu ở đoạn đầu truyện ngắn “Rừng xà nu” của tác giả Nguyễn Trung Thành đã đem đến cho bạn đọc những cảm nhận thú vị về thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu mang giá trị thẩm mĩ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng đã được tác giả Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng tất niềm tin yêu thiên nhiên và tổ quốc.
Phân tích rừng xà nu đoạn đầu – Mẫu 3
Trong kho tàng nền văn học Việt Nam vô cùng phong phú, chúng ta không thể không nhắc đến đề tài kháng chiến suốt bao nhiêu năm gian khổ. Có nhiều tác giả đã vô cùng thành công khi viết về cuộc sống của con người trong thời kì chiến đấu, một trong số đó phải kể đến nhà văn Nguyễn Trung Thành với truyện ngắn Rừng xà nu. Đầu truyện ngắn, hình ảnh cây xà nu hiện ra gây ám ảnh với bạn đọc.
Cây xà nu chính là loại cây thông ba lá, người dân tộc ở các vùng núi Tây Nguyên gọi là cây loong rúh. Thân cây thẳng tròn, có vỏ màu nâu xám, nứt dọc rãnh sâu, tán cây hình trứng rộng. Lá cây cứng, hình kim, dài 20-25 cm và thường có màu xanh ngọc, đính 3 lá trên một đầu cành ngắn.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ hội…”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều có sự góp mặt của cây xà nu. Khi Nguyễn Trung Thành viết: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy… ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai ba năm sau, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man”.
Cây xà nu với sức sống mãnh liệt của mình đã bao phủ, che chở cho dân làng Xô Man suốt những năm tháng kháng chiến và cả trong cuộc sống đời thường. Khắp nơi trên mảnh đất ấy, cây xà nu mọc lên tươi tốt, đứng trên đồi xà nu, nhìn ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
Cây xà nu là đại diện cho người dân Xô Man, đức tính kiên cường, sức sống mạnh mẽ của xà nu cũng là những phẩm chất tốt đẹp của con người nơi đây. Nhiều năm tháng qua đi nhưng cây xà nu nói riêng và hình tượng dân làng Xô Man nói chung vẫn giữ nguyên đẹp ban đầu và gây ấn tượng sâu sắc với nhiều thế hệ bạn đọc.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình ảnh Rừng xà nu ở đoạn mở đầu và kết thúc tác phẩm Dàn ý và 3 bài văn mẫu lớp 12 của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.