Phân tích bài Chí Phèo của Nam Cao tổng hợp 16 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Với 16 mẫu phân tích Chí Phèo mà Pgdphurieng.edu.vn giới thiệu sẽ giúp các bạn lớp 11 tự tin không phải lo nghĩ quá nhiều về việc làm sao để viết được bài văn hay, ấn tượng nhất.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo không chỉ thấy được bộ mặt xã hội đen tối, bất công mà còn đồng cảm với những bi kịch khổ đau của người nông dân thấp cổ bé họng. Đồng thời qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người và khao khát thay đổi thực tại để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm này mời các bạn cùng theo dõi TOP 16 bài phân tích Chí Phèo ngắn gọn trong bài viết dưới đây.
Phân tích bài Chí Phèo siêu hay
- Dàn ý phân tích bài Chí Phèo
- Phân tích Chí Phèo học sinh giỏi
- Phân tích Chí Phèo (5 Mẫu)
- Phân tích bài Chí Phèo (5 Mẫu)
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo (5 Mẫu)
Dàn ý phân tích bài Chí Phèo
I. Mở bài
– Vài nét tiêu biểu về tác giả Nam Cao: Ông được xem là đại diện xuất sắc nhất của văn học hiện thực ở chặng đường phát triển cuối cùng của khuynh hướng này
– Giới thiệu tác phẩm Chí Phèo: Truyện ngắn kết tinh thành công của Nam Cao trên đề tài nông thôn, nông dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước cách mạng
II. Thân bài
1. Làng Vũ Đại – không gian nghệ thuật của truyện ngắn
– Đây chính là không gian nghệ thuật của truyện bởi toàn bộ những chuyện của Chí Phèo đều diễn ra tại đây
– Mâu thuẫn giai cấp gây gắt, âm thầm mà quyết liệt, không khí tối tăm , ngột ngạt.
– Đời sống của người nông dân vô cùng khổ cực bị đẩy vào đường cùng không lối thoát, bị tha hóa.
⇒ Không gian nghệ thuật làm cơ sở đi sâu khai thác hình tượng nhân vật, đồng thời thấy được giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm
2. Nhân vật Bá Kiến
– Tiếng cười Tào Tháo, mềm nắn rắn buông, dùng đầu bò trị đầu bò… ⇒ Xảo quyệt, gian hùng, thủ đoạn
– Nhân cách ti tiện bỉ ổi, dâm đãng, ghen tuông và độc ác
⇒ Điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng
3. Hình tượng nhân vật Chí Phèo
a. Sự xuất hiện của nhân vật
– Hắn vừa đi vừa chửi…: sự xuất hiện tự nhiên
– Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên: Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi nhưng đằng sau đó thấy Chí Phèo mong muốn được coi là người bình thường
b. Lai lịch, cuộc đời Chí Phèo trước khi ở tù
– Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa
– Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp:
+ Là một con người lương thiện làm ăn chân chính với ước mơ giản dị và có lòng tự trọng
c. Sự biến đổi của Chí Phèo sau khi ra tù
– Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:
- Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.
- Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành lưu manh, có tính cách méo mó và quái dị.
– Hậu quả của những ngày ở tù:
- Hình dạng: biến đổi thành con quỷ dữ ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân hình.
- Nhân tính: triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
– Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến
⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính
d. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở
– Tình yêu thương của Thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo.
- Về nhận thức: Nhận biết được mọi âm thanh trong cuộc sống.
- Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của mình và sợ cô đơn, cô độc
- Về ý thức: Chí Phèo thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người.
– Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa: lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Chí được ăn trong tình yêu thương và hạnh phúc.
⇒ Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh
e. Bi kịch bị cự tuyệt
– Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .
– Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
- Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
- Sau Chí hiểu ra mọi việc: xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
⇒ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.
4. Đặc sắc nghệ thuật
– Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.
– Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo.
– Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lôgic.
– Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.
III. Kết bài
- Khẳng định lại những nét tiêu biểu nhất về mặt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo
- Với tác phẩm này, nam Cao đã tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân nửa phong kiến và đồng thời trân trọng, phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng chừng học đã biến thành quỷ dữ
……………….
Tải File về để xem thêm dàn ý phân tích bài Chí Phèo
Phân tích Chí Phèo học sinh giỏi
“Tao muốn làm người lương thiện
Không được ! Ai cho tao lương thiện ?…”
Mỗi lần nhớ đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, tôi lại nghe văng vẳng bên tai mấy câu nói trên đây và hình dung rõ như in một gương mặt đàn ông vừa đáng thương vừa đáng sợ, vằn vện những vết sẹo dữ dằn. Từ đôi mắt nửa tỉnh táo, nửa đờ đẫn của anh ta ánh lên một cái nhìn thật thiết tha, khắc khoải. Cái nhìn pha lẫn cả hăm doạ với cầu khẩn, pha lẫn hận thù, khổ đau, sám hối và khát vọng,… Cái nhìn dường như không phải hướng đến một điểm, một người, mà hướng đến mọi điểm, mọi người.
Những lúc ấy, tôi hiểu rằng, đối với tôi, điều thú vị và tâm đắc mà tác phẩm Chí Phèo mang lại, thật giản dị và cũng thật sâu xa : đó là việc nhà văn đã nói thay cho những người khốn khổ như Chí Phèo một tiếng nói thật cảm động, thấm thía – tiếng nói khát khao được sống như một con người.
Phải, tiếng nổi khát khao được sống như một con người. Chỉ thế thôi, nhưng với Chí Phèo là cả một kì vọng. Bởi hai tiếng “Con người” đối với người đàn ông thua thiệt, bất hạnh này là một cái gì thật tốt đẹp, mà cao xa. Đó là một viễn ảnh. Viễn ảnh ấy vừa như là một hồi ức, vừa là niềm ước mong ; vừa như một cái gì hiển nhiên, đã có, sắp có, lại vừa như một cái gì chưa có và còn xa, còn lâu Chí Phèo mới chạm tới được. Sức sống tươi tắn của hình tượng chí Phèo chính là ở những chỗ như thế này. Sức sống ấy toát ra từ cả hình tượng lẫn ngôn từ, từ cả câu chuyện lẫn cách kết cấu.
Trong tác phẩm, để làm nổi bật tính chất viễn ảnh về con người và khơi sâu niềm khát khao tha thiết ấy ở Chí Phèo, ngoài phần kể tả về những ngày Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, thỉnh thoảng Nam Cao lại lồng vào bức tranh hiện tại bi đát của Chí Phèo một vài mẩu hồi ức vui, trong sáng :
– …”Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lí Kiến, bây giờ là cụ bá Kiến ăn tiên chỉ làng…”
– …”Hắn lại nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.
” – …”Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh.” – v.v.
Những hình ảnh bình dị như thế từng là có thật, rất thật trong đời Chí Phèo. Nhưng tất cả đã thuộc về hồi ức, tức là thuộc một thế giới khác, một cõi xa xăm. Rõ ràng là Chí Phèo rất tha thiết sống như một con người, ít nhất là con người đã có “năm hai mươi tuổi…”, hoặc “hồi ấy…”.
Giữa những trang kể về khoảng thời gian năm sáu ngày ngắn ngủi Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, và những câu, đoạn gợi lại hồi ức vui, trong sáng hiếm hoi như vậy, Nam Cao đã kể khá dài và khá kĩ về những cơn say, những tiếng chửi, những hành động đập phá đang đẩy Chí Phèo trượt dài xuống hố thẳm tha hoá. Càng lúc Nam Cao càng làm cho người đọc hiểu thấm thía cái giá để được sống như một con người. Gập ghềnh và cheo leo thay là con đường trở về với bản tính lương thiện của Chí Phèo!
Niềm khao khát làm người lương thiện ấy càng cháy bỏng trong đoạn nhà văn kể lại việc Chí Phèo đến nhà bá Kiến và dõng dạc tuyên bố yêu sách tối hậu của mình : Tao muốn làm người lương thiện”. Nhưng : ” – Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ có một cách… biết không !… Chỉ còn một cách là… cái này ! Biết không !… Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhổm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chi kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến.
Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra.” Đó cũng là trang cuối cùng đẫm lệ và đẫm máu trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo : Mấy mẩu đối khẩu căng thẳng đầy kịch tính vang lên, được điểm nhịp bằng những nhát dao bi phẫn, căm hờn. Và điều phải xảy đến đã xảy đến. Một kết cuộc thảm khốc : hai cái xác cùng đổ gục trên một vũng máu tươi,…
Khi trang cuối cuộc đời Chí Phèo sắp khép lại, người đọc đã hiểu rằng thế là hết, ước muốn “làm người” của anh vẫn chỉ là một ước muốn. Chuyện “làm người” thậm chí đã thành ảo ảnh chứ không còn là viễn ảnh nửa ! Thật đáng thương, Chí Phèo mắt vẫn “trợn ngược”, “mồm ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng”. Cơ duyên tìm cuộc sống lương thiện của anh đã đứt gãy giữa chừng.
Nhưng thế nào mới được xem là người ? Và vì lẽ gì mà một ước muốn làm người thật bình dị, đối với Chí Phèo lại thành ra quá xa vời, thậm chí, thành không tưởng như vậy ?
Thật ra, thế nào là quỷ, thế nào là người ? Thế nào là dữ, là bất lương, thế nào là hiền, là lương thiện,… ? Câu trả lời không dễ. Truyện ngắn của Nam Cao cũng không hề đưa ra một định nghĩa, một lời giải thích trực tiếp về những điều này. Nhưng đọc tác phẩm, mỗi người chúng ta đều có thể tự tìm được câu trả lời tương đối thỏa đáng cho mình. Câu trả lời có thể rút ra từ chính quan niệm và cách miêu tả của Nam Cao trong tác phẩm, nhất là từ các đoạn tả, kể về phần người của Chí Phèo trước khi đi ở tù và sau khi đã tỉnh rượu (trong sự đối chiếu với phần quỷ của Chí Phèo sau khi đi ở tù về và trước khi tỉnh rượu). Câu trả lời phần nào cũng có thể tìm kiếm từ những đoạn văn triết lí trữ tình của Nam Cao về bản tính và giấc mơ lương thiện của Chí Phèo, chẳng hạn : “Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt” ; “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.
Theo cách đó, tác phẩm như ngầm đưa ra một lời giải thích quan niệm, một cách định nghĩa về con người và cuộc sống con người. Là người thì phải có khả năng sống bằng bàn tay và sức lao động của mình (như Chí Phèo sống bằng nghề làm canh điền cho lí Kiến). Là người thì phải biết sống tự trọng (như Chí Phèo biết tự trọng trước bà Ba). Là người thì phải có bạn, có người thân, có khả năng và được quyền sống thân thiện với mọi người (như Chí Phèo có thị Nở và sống chan hoà cùng thị Nở),…
Phải rồi, đã là người thì ít ra phải như thế. Khóc, cười, yêu ghét, buồn nhớ, giận hòm, bất bình, căm uất,… cũng phải như một con người. Nhưng đây mới là điều tối quan trọng : ý thức về quyền sống như một con người, sống cho ra một con người. Là người thì có quyền đòi hỏi cả xã hội phải công nhận mình như một con người. Hiểu như thế, người ta thấy càng đáng thương cảm cho Chí Phèo. Người đàn ông bị cả làng Vũ Đại xa lánh, từ chối này nào có ước muốn điều gì cao xa ? Chỉ là những gì tối thiểu và chính đáng nhất. Thế mà “không được !”. Lỗi ấy tại ai và do đâu ? Vì Chí Phèo ? Vì bá Kiến ? Vì định kiến xã hội làng Vũ Đại ? Nam Cao đã không hề dễ dãi, đơn giản một chiều khi giúp người đọc tìm cách trả lời những câu hỏi nhức nhối này. Bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo, tất nhiên suy cho cùng là xuất phát từ hiện thực xã hội đen tối của làng Vũ Đại, từ mưu ma chước quỷ của những kẻ cai trị sâu mọt, gian ngoan, thâm hiểm như lí Kiến. Nhưng cũng vì cả Chí Phèo nữa. Đưa Chí Phèo vào con đường tự huỷ hoại là bá Kiến, nhưng thực hiện các hành động, hành vi tự huý hoại ấy không ai khác, là Chí Phèo.
Việc Chí Phèo không được trở lại làm người có thể giải thích bằng nhiều lí do. Có nhiều lí do khách quan lẫn lí do chủ quan. Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là hai lí do này : Thứ nhất, định kiến xã hội quá nghiệt ngã là thứ rào cản không thể vượt qua ; thứ hai, Chí Phèo đã trượt dốc quá xa, đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn và trong Chí Phèo xuất hiện một thứ rào cản khác : rào cản tâm lí. Lí do thứ nhất thuộc về phía khách quan xã hội, đã được bà cô thị Nở nói toạc ra : “Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ.” Ở cái làng Vũ Đại này, từ lâu, Chí Phèo đã thành “con vật lạ”. Từ lâu, Chí Phèo đã sống ngoài rìa xã hội (một mình ở bên kia bờ đê). Chí Phèo chửi, người ta bỏ ngoài tai (thường chỉ có ba con chó dữ đáp lại thằng say rượu). Trong mắt người làng, cũng như bà cô thị Nở, Chí Phèo chỉ có thể sống kiếp thú vật (“chỉ có một nghề rạch mặt ra ăn vạ”), không thể sống chung với người, hoặc sống mà cũng như đã chết. Cái định kiến này sâu sắc, nghiệt ngã đến mức, giả dụ thị Nờ có trái lời bà cô, vẫn cứ chấp nhận chung sống với Chí Phèo, thì xã hội làng Vũ Đại vẫn không thể tha thứ và đón nhận anh ta. Lí do thứ hai, thuộc về phía chủ quan Chí Phèo, liên quan đến sự tự ý thức của Chí Phèo.
Đúng là Chí Phèo đã trượt dốc quá xa. Chí đã phạm quá nhiều tội lỗi (cho dù là phạm trong lúc say). Đến mức hầu như không thể tính sổ được với dân làng rằng anh “đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”. Món nợ ấy biết trả đến bao giờ cho xong để thanh thản trở lại làm người ? Khi Nam Cao lần thứ hai miêu tả ngoại hình Chí Phèo : “Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio ; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi ?”, ta không nên hiểu đó là miêu tả chỉ để nhận dạng hay để thấy Chí Phèo đã mất hẳn nhân hình, mà quan trọng hơn, nhà văn như muốn nói với độc giả rằng, đấy, tội lỗi Chí Phèo còn ghi chằng chịt trên gương mặt kia, không bao giờ có thể xoá sạch được. Nó sẽ trở thành một thứ mặc cảm tội lỗi, ám ảnh không nguôi phần đời tỉnh táo của Chí Phèo. Chính Chí Phèo trong cơn tuyệt vọng đã ý thức rõ hơn ai hết về điều này : “Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không !”. Đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn : có bao nhiêu vết sẹo trên mặt thì cũng có bấy nhiêu vết thương không lành được trong tâm hồn.
Bấy giờ ở Chí Phèo đã xuất hiện một thứ rào cản khác lại còn khó vượt qua hơn rào cản định kiến xã hội. Đó là rào cản tâm lí. Đến lúc đó, một cách tỉnh táo nhất, chính Chí Phèo cự tuyệt quyền làm người của mình bằng một án mạng và bằng những nhát dao oan nghiệt. Có lẽ một trong những nguyên do sâu xa nhất khiến Nam Cao dể cho Chí Phèo gặp thị Nở, tỉnh táo ăn cháo hành, đón nhận tình yêu, tình người,… chính là để chuẩn bị cho anh ta ý thức được đầy đủ – thoạt tiên thì chỉ lờ mờ, nhưng càng lúc càng rõ – tình cảnh bi đát, tuyệt vọng của mình. Phải chăng vì vậy mà nhà văn đã miêu tả nhân vật của mình như một nạn nhân tuyệt vọng vừa đáng thương, vừa đáng trách ? Tuy nhiên, dù đáng thương nhiều hay đáng trách nhiều thì rốt cuộc Chí Phèo không thể tha thứ cho kẻ thù của mình cũng như tội lỗi của mình. Nam Cao đã rất khách quan. Nhưng ông không vô tình. Trái lại, ông đã nhiêu lần kín đáo biện minh cho Chí Phèo. Nhà văn quả là rất cận nhân tình khi viết rất nhiều cầu văn tương tự : “Chưa bao giờ hắn tỉnh…”, “Có lẽ hắn cũng không biết rằng…”, “Hắn biết đâu…” “Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả trong lúc say.” Mà “Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Và, hơn thế, ông còn tìm cách khẳng định thêm rằng : chính lúc Chí Phèo nhận ra là mình đã bị cả xã hội làng Vũ Đại gạt phăng mất cái quyền được làm người, thì niềm khát khao được sống như một con người càng cháy bỏng hơn bao giờ hết ; rằng : về bản chất, chưa bao giờ Chí Phèo là một gã lưu manh hay một tên quỷ dữ ; rằng : con người luôn phải chịu trách nhiệm về chính nó, nhưng con người cũng chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà thôi ; v.v. Khi Chí Phèo ngắc ngoải chết trong vũng máu tươi, sau tiếng kêu tuyệt vọng, và những dòng đời bi thảm cuối cùng của anh ta khép lại, thì người ta không chỉ thấy giận (giận kẻ gieo tai hoạ cho Chí Phèo), thấy thương (thương một kẻ có số phận bi đát), mà còn thấy tiếc. Tiếc thay cho Chí Phèo. “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ” ; “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.”, “Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi”. Những cái “giá…”, cái “sẽ…”, cái “hay là…” như vậy – trong sự ngân vang của ngôn từ trần thuật – rốt cuộc cũng vẫn chỉ là ao ước, là giả thiết, là viễn ảnh, ảo ảnh mà thôi. Nó cũng thoảng qua, cũng mong manh như hương vị cháo hành của thị Nở mang cho Chí Phèo lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng vậy. Cháo hành “rất ngon” ăn hết từ hôm trước mà trớ trêu thay mãi đến hôm sau, khi bị thị Nở phũ phàng dúi ngã “lăn khoèo xuống sân”, chí Phèo vẫn “thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành”.
Cứ như thế, biết bao nhiêu là tiếc nuối cho cái cơ duyên “làm người lương thiện” của Chí Phèo đã được nhà văn thông qua nghệ thuật, gieo vào lòng người đọc, khiến người ta phải cùng ông thao thức mãi không thôi. “Chí Phèo” là tiếng nói của niềm khao khát. Nhưng đó là tiếng nói bên trong, tiếng nói của một niềm khát khao bình dị được cất lên từ sâu thẳm tâm hồn. Dựa theo sự miêu tả của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo, người ta hoàn toàn có quyền gọi nhân vật chính của truyện ngắn này – Chí Phèo – là một “thằng đầu bò”, một “con vật lạ”, “gã lưu manh” hay “tên quỷ dữ”,… Cũng như vậy, người ta hoàn toàn có thể hiểu và tin rằng, từ trong bản chất, Chí Phèo là một người lao động lương thiện, một anh canh điền “hiền như đất”. Nhưng dù là nhìn nhân vật từ cả hai phía, hoặc giả, nhìn chủ yếu từ phía này hay phía kia thì cái gã lưu manh hay cái người lương thiện trong Chí Phèo, ám ảnh người đọc không phải bằng hành động bên ngoài mà bằng một thứ hành động bên trong, tiếng nói bên trong : ám ảnh bằng những cơn địa chấn lớn lao của số phận cùng những vang động của nó trong chính tâm hồn anh ta. Hầu hết những cảnh ngộ, những sự kiện tạo ra những va đập và biến đổi sâu sắc số phận, tính cách, tâm lí Chí Phèo đều được nhìn bằng con mắt bên trong, con mắt của nhân vật Chí Phèo và kể bằng tiếng nói tâm hồn, theo mạch suy tư của tâm hồn. Ai đó đã rất có lí khi gọi cách trần thuật và kết cấu truyện Chí Phèo là trần thuật và kết cấu theo dòng ý thức của nhân vật chính. Sự lựa chọn này của tác giả là rất hợp lí và có ý nghĩa. Các diễn biến tâm lí và tiếng nói ở đây đều thuộc về một chủ thể : Chí Phèo. Nương theo dòng ý thức và điểm nhìn của nhân vật, nhà văn, người đọc cùng nhân vật nhìn vào hiện tại, quá khứ, tương lai của anh ta. Từ đó, tác phẩm mở ra một hành trình để nhân vật chính tự nhận thức, tự phát hiện con người bên trong của mình.
Hành động tự nhận thức và tự phát hiện này, đặc biệt từ sau khi Chí Phèo tỉnh rượu, được diễn đạt rất ấn tượng và hiệu quả bằng một kiểu lời văn nửa trực tiếp độc đáo và bằng một khung cú pháp đặc thù : Hắn + động từ tâm lí (Hắn thấy…, hắn nghe…, hắn sợ,…). Người đọc, vì thế, cơ hồ không cưỡng lại được, cứ trôi miên man theo dòng chảy cảm xúc, suy tư của Chí Phèo : “Hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn…”, “Hắn sợ rượu…”. “Hắn lại nao nao buồn…”, “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.”. “Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt.”. “Hắn húp một húp và nhận ra rằng : những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon”. Ngược về quá khứ, “nhớ đến bà Ba”, “hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì.”. Nhìn vào hiện tại, hắn “trông thị thế mà có duyên”, hắn thấy “như yêu thị”, và khám phá ra rằng “đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say”. Rồi, “hắn thấy lòng thành trẻ con”, “hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”. Và điều tự phát hiện này mới cực kì quan trọng : “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại gây kẻ thù ?”. Hoặc : “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện.” Cứ thế, mỗi một lần “Hắn thấy…”, “Hắn .vợ…”, “Hắn nhớ…”, “Hắn muốn…” là mỗi lần cõi thầm kín của Chí Phèo dược tự nhận thức, tự phô diễn, cũng là mỗi lần niềm khao khát từ bên trong vang vọng lên tiếng nói làm tái tê, xao xuyến lòng người.
Trọng tâm của tác phẩm Chí Phèo không phải kể về quá trình lưu manh hoá mà vé quá trình thức tỉnh, vỡ lẽ của nhân vật. Những đoạn hay nhất cũng thuộc phần này (những diễn biến tâm lí của Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở đến khi tự kết liễu đời mình).
Ở đây rõ ràng có nỗi đau, tiếng kêu tuyệt vọng, nhưng bao trùm, và sâu thẳm vẫn là tiếng nói khát khao. Khát khao được sống cho ra một con người : biết cười khóc, buồn vui như một con người, được yêu thương, hạnh phúc bình dị như một con người, được đón nhận bằng những vòng tay bè bạn như một con người. (Chí Phèo muốn xóa bỏ thù oán, để được sống trong tình thân hữu, tình yêu — tình yêu được xem như một biểu hiện đặc biệt của tình bạn, tình người). Hơn bốn mươi năm vật lộn với đời, Chí Phèo chỉ được thực sự sống như con người trong vỏn vẹn năm sáu ngày ngắn ngủi, ấm áp tình người. Việc gặp và chung sống với thị Nở là một sự bù đắp cho Chí Phèo tất cả những loại tình cảm của giống loài mà trước đó anh chưa từng biết đến : Thị Nở đâu chỉ là người tình, thị còn là người yêu, hơn thế, còn như là bạn, là mẹ (không phải ngẫu nhiên mà Chí Phèo đón nhận tình cảm và sự săn sóc của thị Nở, phần nào tựa như đón tình mẹ ; thích được làm nũng như với mẹ, đón nhận bát cháo hành như đón hương vị thơm thảo của tình người).
Tiếc rằng, khi giấc mơ ấy sắp thành hiện thực thì cũng là lúc đổ vỡ tất cả, tiêu tan thành mây khói tất cả. Thế là, Nam Cao miêu tả Chí Phèo vỡ lẽ, tuyệt vọng mà làm cho người đọc choáng váng. Và, nhân vật càng tuyệt vọng, người đọc càng choáng váng thì tiếng nói khát khao được sống như một con người càng khắc khoải thiết tha.
Đọc sáng tác của Nam Cao, nhiều khi ta không khỏi sửng sốt, băn khoăn. Việc Nam Cao thường viết rất hay về những bi kịch, những nỗi niềm của người trí thức nghèo như Điền, như Hộ, như Thứ,… thực ra, cũng dễ hiểu. Là một giáo khổ trường tư, một văn sĩ nghèo, bản thân ông từng nếm đủ buồn vui, đau thương và cơ cực của những cảnh, những người trong truyện, thì viết về người trí thức gần như là viết lại những gì ông đã sống.
Nhưng còn việc ông viết về đời sống của đủ hạng nông dân nghèo thì, hẳn là khó khăn hơn và xem ra không được thuận tay, thuận lí cho lắm. Thế mà ông vẫn viết rất hay, và nhiều tác phẩm ông viết về nông dân nghèo cứ như là chuyên của chính đời ông. Khả năng nhập cuộc, nhập vai của ông thật đáng phục và dáng trọng. Điều đó càng chứng tỏ rằng Nam Cao có một cái nhìn thật tinh nhạy, mẫn cảm, sâu sắc, và một tấm lòng cảm thương hết sức tha thiết, chân thành đối với những khổ đau, khát vọng của con người.
Phân tích Chí Phèo
Nam Cao là nhà văn tiêu biểu với những sáng tác về người nông dân, tác phẩm Chí phèo được coi là kiệt tác, khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông. Nhà văn đã dựng lên bức tranh về cuộc sống của những người nông dân dưới sự áp bức của địa chủ cường hào, đã đẩy họ con đường tha hóa và xuống tận cùng của xã hội.
Truyện Chí Phèo đã tái hiện lại hình ảnh nông thôn Việt Nam, của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Xã hội này được đặc trưng, một bên bởi những bộ mặt như Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo, Bát Tùng và những bè đảng xung quanh chúng, sống phè phỡn, gian ác, bạo ngược, vừa “du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau”; một bên là đông đảo những người dân quê thấp cổ bé miệng, nơm nớp lo sợ, nhẫn nhục, quanh năm đầu tắt mặt tối vẫn không đủ ăn. Tầng lớp những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họp thành một nhóm riêng. Họ là những dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã lưu manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai của bọn cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tai vạ cho những người lương thiện.
Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện ra đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.
Thông qua nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức bóc lột, vì đói khổ, cùng cực. Tác giả đã mổ xẻ vấn đề cuộc sống và số phận mỗi con người, ý thức về quyền sống, quyền làm người, ý thức về nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng đồng khinh bỉ, hắt hủi, gạt ra bên lề xã hội, ngay ở một “thằng cùng hơn cả dân cùng”, tưởng như đã bị hủy hoại hoàn toàn cả nhân hình và nhân tính.
Bên cạnh đó, truyện Chí Phèo còn giúp người đọc có cơ sở để chia sẻ với những dằn vặt, đau khổ của con người khi không được làm người, chỉ mong ước được sống bình thường, “được làm người lương thiện” như mọi người khác mà không được. Sự kết hợp hai mặt xã hội và nhân bản trong chủ đề mà truyện ngắn Chí Phèo đặt ra càng làm cho tác phẩm này có giá trị văn học sâu hơn, có sức ngân vang lớn hơn.
Các nhân vật trong truyện của Nam cao đều có những nét tính cách đặc sắc, từ Chí Phèo, Thị Nở, cho đến Bá Kiến, Lí Cường, Năm Thọ, Binh Chức, Đội Tảo, Tự Lãng, bà cô Thị Nở v.v… Tất nhiên, trong các nhân vật này, gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở người đọc là Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở. Mỗi nhân vật đúng là một cá tính, là “con người này”, không lẫn vào đâu được, với ngoại hình và tính cách riêng, lối sống riêng, ngôn ngữ riêng, số phận riêng, đồng thời lại tiêu biểu cho một loại người nào đó về mặt xã hội, sinh hoạt, tâm lí.
Bá Kiến là điển hình của bọn lí dịch cường hào ở nông thôn. Chúng đều có những nét chung: hống hách, gian ác, dâm ô, đầy thủ đoạn mưu mô để giành giật và củng cố chức quyền cho cá nhân và con cái, đục khoét, ức hiếp dân lành, hãm hại những kẻ không ăn cánh và chống đối. Bá Kiến càng tỏ ra ranh ma quỷ quyệt trong nghề làm tổng lí, đặc biệt khi phải đối phó với những tên vai vế tranh chấp chức quyền với hắn hoặc những kẻ cố cùng liều thân. Tùy người, tùy việc, y biết lúc nào thì quát tháo, dọa nạt, lúc nào thì nhẹ nhàng, dụ dỗ, mua chuộc. Chính nhờ vậy lão mới thực hiện được mọi ý đồ đen tối của mình, khuất phục được bọn đầu bò đầu bướu, hạ được các phe cánh đối nghịch trong làng, quyền thế ngày càng thăng tiến và vững vàng. Con người khôn ngoan lõi đời ấy đã khống chế lừa bịp được Chí Phèo lâu dài, nhưng cuối cùng đã bị Chí Phèo giết chết, vì từ trong thâm tâm, trong tiềm thức, Chí đã nhận ra lão chính là kẻ thù của. mình, kẻ đã tước đoạt quyền làm.người của mình.
Đối với Bá Kiến thì Chí Phèo cũng chỉ là một trong số những tên dân cùng liều lĩnh như Năm Thọ, Binh Chức, cho nên cách xử sự của lão đối với Chí Phèo nói chung cũng giống “sách lược” đối với hạng đầu bò đầu bướu: dọa nạt, trấn áp công khai hoặc ngấm ngầm; hoặc nếu cần thì vô hiệu hóa, mua chuộc, lợi dụng làm tay chân. Và Chí Phèo cũng như Năm Thọ, Binh Chức đều biết rõ bản chất, chỗ mạnh và chỗ yếu của Bá Kiến và hạng người như lão. Nhưng Chí Phèo phục vụ cho Bá Kiến lâu dài hơn, đắc lực hơn, ngay từ lúc là một anh canh điền chất phác, khỏe mạnh, và cả sau khi đi tù về trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo cũng bị lão hành hạ, đày đọa, làm nhục nhiều hơn. Và do vậy, Chí Phèo hiểu rõ lão hơn, nặng oán thù hơn đối với lão. Lúc tỉnh táo, Chí Phèo đã ý thức rõ về cảnh tủi nhục phải hầu hạ mụ vợ ba của Bá Kiến, về chuyện bị Bá Kiến hãm hại đẩy vào tù. Sau khi ở tù ra, hắn đã biến thành một con người khác. Từ một thanh niên hiền lành, rụt rè, hắn đã biến thành một tên lưu manh, liều lĩnh, hung dữ, rượu chè say khướt, chửi bới suốt ngày. Nhưng lúc tỉnh cũng như lúc say, trong ý thức và trong tiềm thức, hắn vẫn không bao giờ quên Bá Kiên. Bá Kiến đúng là nỗi ám ảnh của hắn.
Trong suốt thiên truyện, tác giả chỉ miêu tả ba lần Chí Phèo gặp Bá Kiến, sau khi hắn ở tù ra. Lần thứ nhất, sau khi uống rượu say, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục của lão ra mà chửi. Hắn định đến để gây sự. Gây sự, chửi bới, chống đối một người như Bá Kiến vừa đế thỏa sự căm giận, vừa có dịp để lên mặt với những người xung quanh, vừa có thể vòi tiền uống rượu. Với một người như Chí Phèo, một người mà sự liều lĩnh hung dữ là một cách để tự giới thiệu mình, để tồn tại và cũng là để che đậy sự sợ hãi cố hữu, thì không có gì có thể nói trước được về dự định và hành động. Tất cả tùy thuộc vào tình huống cụ thể. Gặp Lí Cường, bị Lí Cường quát mắng, tát tai, hắn rạch mặt, la làng, lăn đùng ra ăn vạ. Nhưng khi Bá Kiến “dịu dàng” chào hỏi, mời mọc, tỏ vẻ ân cần săn sóc, cho tiền, thì hắn lại nguôi ngoai, thích chí, hả hê.
Lần thứ hai, sau khi uống rượu say, hắn lại ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến nói là để đòi nợ. Gặp Bá Kiến, hắn xin đi ở tù, vì “ở tù còn có cơm ăn, còn ở làng ở nước thì không làm gì nên ăn, không mảnh đất cắm dùi”. Và, tất nhiên, kèm theo yêu cầu kì quặc ấy, là những lời dọa dẫm úp mở mà Bá Kiến rất hiểu rõ. Nhưng lần này lão Bá Kiến khôn ranh lại đẩy Chí Phèo đi đòi nợ Đội Tảo cho lão. Lão nghĩ bất kì kết cục nào cũng đều có lợi cho lão. Ngẫu nhiên, Chí Phèo lại đòi được nợ và được Bá Kiến cho mấy sào vườn ở bãi sông cấm thuê của một người làng trước đó. Và cũng từ đó, Chí Phèo bao giờ cũng say, và khi hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm, gây ra bao nỗi khiếp sợ và tai vạ cho dân làng.
Lần thứ ba, Chí Phèo gặp Bá Kiến sau khi bị Thị Nở từ chối không nhận làm vợ hắn. Cùng quẫn, phẫn chí, Chí Phèo uống rượu say, cầm dao đi định “đâm chết cả nhà nó”. Nhưng Chí Phèo lại quên rẽ vào nhà Thị Nở mà lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, đòi được làm người lương thiện, và Chí đã đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Kết thúc này bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên, thật ra lại rất tất yếu, bộc lộ rõ tính cách của Chí Phèo, ý đồ tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đây là một kết thúc khiến cho người đọc phải suy nghĩ rất nhiều về thực trạng và mâu thuẫn xã hội, về cuộc sống và bi kịch của đời người.
Câu chuyện đã tạo nên một ngã rẽ cho cuộc đời Chí từ khi gặp thị nở. Sau những ngày hạnh phúc ngắn ngủi với thị, Chí càng cảm thấy thêm cay đắng, khổ sở vì thân phận và điều này càng đẩy nhanh Chí đến một hành động tuyệt vọng. Chí không chỉ say, hung dữ, liều lĩnh, gây tội ác, mà còn biết sợ, tính toán, nhận diện được kẻ thù. Chí suy nghĩ, đau khổ về kiếp sống không bình thường, không ra người, không lương thiện của mình. Trong những ngày được hạnh phúc với Thị Nở, Chí cũng biết vui, biết mơ ước, biết buồn, biết ăn năn. Bị Thị Nở từ chối, đối với Chí, là một đòn đau không chịu đựng nổi. Từ kinh nghiệm sống, từ tiềm thức vô thức, Chí cảm nhận tình trạng bé tắc vô vọng của mình có nguyên nhân sâu xa hơn tội ác của Bá Kiến. Giết Bá Kiến cũng không có được sự giải thoát. Và hắn đã tự sát.
Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo không chỉ là hình ảnh những tên cố cùng liều thân hoặc là điển hình, của những người nông dân lưu manh hóa vì sự áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến, mà còn thể hiện bi kịch của con người bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, quyền được hưởng hạnh phúc. Cái điều rất nghiêm trang, rất đau lòng, rất tội nghiệp mà Nam Cao đã ghi lại và muốn nhắn gửi cho người đời thông qua một câu chuyện tưởng như chẳng có gì, một số nhân vật dị dạng và một giọng văn pha nhiều tính chất hài hước, nội dung thông điệp đó nhiều thế hệ độc giả đã hiểu và càng đánh giá cao tác giả.
Xây dựng lên những nhân vật tiêu biểu, nhà văn đã dùng những ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ được quần chúng nhân dân sử dụng hằng ngày, rất phong phú, sinh động, giàu hình ảnh. Có thể nói hơn bất kì một nhà văn nào khác cùng thời, ngôn ngữ Nam Cao cho đến bây giờ vẫn tỏ ra không cũ với thời gian, cả về mặt từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp.
Phải có sự cảm thông sâu sắc với thân phận những người nông dân Nam Cao mới có mới có một tác phẩm giá trị như vậy. Ông đã khắc họa lên bức tranh xã hội với những bọn địa chủ cường hào gian ác, những con người nông dân tội nghiệp, bị chèn ép, bóc lột, không để cho họ một con đường sống.
Phân tích bài Chí Phèo
Trong số những kiệt tác văn học hiện thực của nền văn học Việt Nam thời kỳ trước, thì “ Chí Phèo” của Nam Cao là tác phẩm nổi bật khi phản ánh được hiện thực rõ nét của xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công và tội ác của những kẻ xấu xa. Đồng thời hình ảnh người nông dân bần cùng bị hoàn cảnh xô đẩy cũng được khắc họa rất thành công.
Nhân vật chính của tác phẩm cùng tên với tiêu đề, đó chính là Chí Phèo. Vốn là một người nông dân hiền lành, lương thiện thật thà nhưng lại bị xã hội chà đạp, chèn ép, dẫn đến bước đường cùng là trở thành một kẻ sát nhân. Chí Phèo xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm bằng những tiếng chửi rủa, “ hắn chửi trời, chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại… chửi đứa nào đẻ ra hắn…” Những tiếng chửi như để bắt đầu cho cuộc đời tăm tối và đầy bi kịch của hắn.
Hắn, Chí Phèo sinh ra đã bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ, người làng truyền tay nhau nuôi hắn lớn. Vì có sức khỏe nên hắn đi làm ở cho nhà Bá Kiến. Thấy hắn như vậy, Bá Kiến ghen tuông, tìm cách đẩy hắn vào tù. Và bắt đầu từ đây, Chí Phèo sinh ra những nỗi đau, những oán hận chồng chất với cuộc đời. Chí Phèo dần dần không còn là một người nông dân lương thiện nữa mà đánh mất đi chính bản thân mình. Hết hạn tù, Chí Phèo về làng và trở thành một con người hoàn toàn khác. Chí Phèo xuất hiện với hình ảnh “ cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết.” Người nông dân hiền lành trước đây đã biến mất, thay vào đó là hình ảnh gớm ghiếc khiến người khác nhìn vào cũng có vài phần ghê sợ.
Chính những con người trong xã hội phong kiến thối nát ấy, đã khiến cho bản tính hiền lành, nhân cách lương thiện cùng ham muốn làm người của Chí Phèo bị cướp mất. Hắn biến thành một kẻ xấu xa, sống nhờ việc đi rạch mặt ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Không biết bao nhiêu gia đình ở cái làng Vũ Đại này đã bị hắn phá tan. Dân làng không ai không sợ khuôn mặt gớm ghiếc cùng những hành động tàn bạo ấy. Hắn bị mọi người xa lánh, ghét bỏ. Cuối cùng, không còn cách nào khác lại trở về làm thuê cho nhà Bá Kiến. Chí Phèo có lẽ đã tiếp tục lâm vào bước đường cùng, khi hắn phải trở về làm thuê cho kẻ đã đẩy hắn xuống địa ngục như bây giờ. Nỗi đau của Chí Phèo nhưng có lẽ cũng là nỗi đau chung của những con người thấp cổ bé họng, bị áp bức đến nỗi rơi vào bế tắc trong xã hội phong kiến ấy.
Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao xây dựng rất thành công. Nhân vật điển hình cho sự tha hóa, bế tắc, bần cùng của xã hội phong kiến thối nát ngày ấy. Và nếu chỉ có như vậy thì chưa đủ để Chí Phèo trở thành kiệt tác. Nam Cao đã khơi gợi sự khát khao một mái ấm gia đình, được yêu thương như bao người khác của Chí Phèo. Tình huống tác giả đưa ra, để cho Chí Phèo gặp Thị Nở trong vườn chuối sau khi hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện trong đời hắn với bát cháo hành đã khiến cho chính bản thân Chí Phèo cũng như người đọc cảm thấy vẫn còn chút hy vọng thắp sáng cuộc đời tăm tối của hắn. Nhân vật Thị Nở hiện lên là một người phụ nữ thô kệch, xấu xí, nhưng lại là điểm sáng thắp lên hy vọng của Chí Phèo. Thị Nở xuất hiện đã đánh thức lương tri, đánh thức con người vốn lương thiện hiền lành của Chí Phèo. Chi tiết “ bát cháo hành” là một chi tiết, hình ảnh nghệ thuật đắt giá, giàu giá trị nhân văn sâu sắc, biểu hiện cho tình cảm giữa người với người trong xã hội thối nát đó.
Từ khi gặp Thị Nở, Chí Phèo nhận ra cuộc đời ngoài kia vẫn còn nhiều điều tốt đẹp. “ Hắn thấy già yếu, bệnh tật và cô độc còn đáng sợ hơn cả ốm đau bệnh tật. Hắn khát khao làm hòa với mọi người.” Đến giờ phút này, có lẽ hắn đã biết rằng mình cũng cần một cuộc sống như mọi người. Một cuộc sống bình thường, không phải đâm thuê chém mướn, không phải rạch mặt ăn vạ người ta nữa. Mong ước bình dị nhưng dường như với Chí Phèo lại vô cùng lớn lao, khó thực hiện.
Vậy nhưng một lần nữa, xã hội phong kiến thối nát, nghiệt ngã, tàn nhẫn ấy đã không để cho mong ước bình dị làm người lương thiện của Chí Phèo được trở thành hiện thực. Đó là khi bà cô của Thị Nở xuất hiện, và bà cô phản đối Chí Phèo và Thị Nở đến với nhau. Không chỉ vậy, bà ta còn mắng mỏ, chì chiết Chí Phèo bằng những lời lẽ ác nghiệt, cay độc nhất. Bà cô ấy có lẽ chính là nhân vật tiêu biểu, hiện thân của xã hội phong kiến xấu xa, đã cự tuyệt, từ chối một cách tàn nhẫn khát khao làm người lương thiện của Chí Phèo, đẩy hắn vào bước đường cùng của cuộc đời. Chính vì thế, Chí Phèo một lần nữa rơi vào tuyệt vọng, hắn đau đớn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù, để giết cái kẻ đã làm hại đời hắn.
Chí Phèo giết chết Bá Kiến, sau đó hắn tự tay kết liễu cuộc đời tối tăm của mình. Hình ảnh Chí Phèo nằm giãy đành đạch giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến, hét to lên rằng “ Ai cho tao làm người? Ai cho tao lương thiện?” đã khắc sâu vào trong tâm trí cũng như ám ảnh bất cứ người đọc nào. Không ai cho hắn lương thiện. Từng con người không cho, nên cái xã hội ấy chắc chắn không cho. Một tấn bi kịch đối với cuộc đời của Chí Phèo, người nông dân lương thiện nhưng sinh ra trong xã hội đầy rẫy những bất công cùng sự tàn nhẫn.
Thật vậy, chỉ có ngòi bút sâu sắc của Nam Cao mới có thể xây dựng được một cách thành công đến thế hình tượng nhân vật điển hình của sự áp bức, bất công thời bấy giờ. Đọc Chí Phèo, người đọc sẽ ám ảnh mãi không thôi, cũng như đọng lại sâu sắc niềm thương cảm với thân phận của những con người sinh ra nhầm thời, vì hoàn cảnh mà phải lâm vào bước đường cùng, trượt dài trong hố sâu của tội lỗi.
……………..
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu phân tích bài Chí Phèo
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao Dàn ý & 16 bài phân tích bài Chí Phèo của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.