Cảm nhận về con người của Hàn Mặc Tử trong bài Đây thôn Vĩ Dạ gồm 4 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Với 4 mẫu cảm nhận con người Hàn Mặc Tử mà Pgdphurieng.edu.vn giới thiệu sẽ giúp các bạn tự tin không phải lo nghĩ quá nhiều về việc làm sao để viết được bài văn hay, ấn tượng nhất.
Đây thôn Vĩ Dạ như chính tiếng lòng của Hàn Mặc Tử trong những năm tháng cuối đời. Ở đó chúng ta tìm thấy sự cô đơn, tìm thấy sự khát khao yêu và được yêu, khát khao nắm giữ hạnh phúc và có cả sự tiếc nuối cho chính cuộc đời của tác giả. Vậy sau đây là 4 bài văn mẫu siêu hay, mời các bạn cùng đón đọc nhé.
Dàn ý cảm nhận về con người của Hàn Mặc Tử
I. Mở bài:
– Hàn Mặc Tử là nhà thơ có dấu ấn cái tôi khác biệt trong phong trào Thơ mới. Điển hình là trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, con người ông được bộc lộ một cách rõ nét nhất.
II. Thân bài:
– Hàn Mặc Tử là con người yêu thiên nhiên, cuộc sống
- “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vừa là câu hỏi, vừa là lời chào mời. Lời thơ nhẹ nhàng gợi nhắc đến bóng dáng xưa cũ, ở đó có người con gái Huế ông thương.
- Bao nhiêu kỉ niệm ùa về với cảnh sắc thiên nhiên trữ tình.
- “Nắng mới lên” là nắng mới, không quá gay gắt, ánh nắng nhẹ nhàng khiến mọi người đều cảm thấy dễ chịu.
- Ấn tượng nhất là hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chữ “điền” ở đây có thể chỉ hình ảnh cánh cửa sổ ngôi nhà hay cũng chính là hình ảnh thấp thoáng của người con gái có gương mặt phúc hậu xứ Huế.
→ Dù không được trở lại thăm thôn Vĩ Dạ nhưng mọi hình ảnh nơi đây vẫn được nhà thơ Hàn Mặc Tử lưu giữ với niềm mến thương khôn xiết. Thôn Vĩ với ông là một niềm ước vọng lớn nhưng cũng đầy nên thơ và trữ tình.
– Hàn Mặc Tử là con người cô đơn
- Khổ 2 của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là tâm trạng đầy đau buồn, nhớ nhung của nhà thơ Hàn Mặc Tử: “Gió theo lối gió, mây đường mây … Có chở trăng về kịp tối nay”
- Sử dụng biện pháp nhân hóa, dòng nước dường như cũng buồn thay cho tâm trạng của tác giả. Nhịp thơ 4/3 ngăn cách; không gian trong bài thơ cũng trở nên sâu lắng hơn.
- “Gió theo lối gió, mây đường mây”, mọi thứ chia đôi ngả, gần mà xa xôi cách trở như chính câu chuyện của tác giả vậy.
- “Thuyền ai” gợi cảm giác vừa quen, vừa lạ.
→ Hàn Mặc Tử như đã nhuộm màu tâm trạng cho khổ thơ, ở đó ông cũng khát khao được yêu, được chiếm lấy tình yêu nhưng không còn đủ thời gian nữa.
– Hàn Mặc Tử – con người đầy trăn trở, day dứt
- Khổ 3 cũng là khổ cuối của bài thơ là tâm tình của tác giả với người con gái Huế: “Mơ khách đường xa, khách đường xa … Ai biết tình ai có đậm đà”.
- Con người, cảnh vật giờ đây đang dần mờ nhạt và biến mất. “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, mọi vật như đang được đan xen vào nhau, thật khó để phân biệt rạch ròi.
- “Ai biết tình ai có đậm đà”, tác giả hoài niệm rồi lại bâng khuâng, hụt hẫng.
→ Hàn Mặc Tử trở về hiện tại, ông cảm nhận rõ hơn về sự xa xôi, hư ảo của hạnh phúc rồi lại tự mình thở dài, nhớ mong.
III. Kết bài:
– Hàn Mặc Tử là con người đầy ước vọng và đau buồn. Thơ ông khiến người đọc cảm thấy day dứt, ám ảnh một nỗi buồn không thể viết thành tên.
Cảm nhận về con người của Hàn Mặc Tử – Mẫu 1
Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chói lọi diệu kỳ trong vòm trời rực rỡ lấp lánh nhiều tinh tú lạ. Thơ Hàn vừa thể hiện tình yêu khôn cùng với cuộc sống trần tục, vừa hướng về Chúa Trời với những niềm thanh khí thần tiên. Đã có nhiều hướng tiếp nhận kiệt tác Đây thôn Vĩ Dụ. Song, ai cũng thấy rằng bài thơ nói về tình yêu – một tình yêu đơn phương, thơ mộng, trong sáng, hồn huyền ảo. Tuy nhiên, khó phủ nhận được là Hàn Mặc Tử đã nói khá hay về xứ Huế mộng và thơ. Đây thôn Vĩ Dạ chi vẻn vẹn có 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn.
Bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng gửi gắm của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:
Sao anh không về chơi thôn Vi?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?
Nếu như mỗi tình yêu đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mỗi hình ảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, đều những kỉ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế khoảng không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng bởi cây cối xanh tươi, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng, tưới màu xanh của cây lá. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ… của xứ này. Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân… đều có những cảm giác mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Dạ nên thơ.
Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài giũa thành như những cành vàng lá ngọc…
Câu thơ: Lá trúc che ngang mặt chữ điền?
Thật là một sáng tạo độc đáo. “Mặt chữ điền” gợi cho người đọc nhớ tới hình ảnh người dân có khuôn mặt vuông vức, thân hình cường tráng, đầy nam tính. Nhưng, khi hình tượng này đặt trong chính thể đoạn thơ và câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hòa, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Như vậy, câu thơ còn khắc họa thành công một nét đáng nhớ; đáng yêu của thôn Vĩ: Cảnh đẹp đẽ, tốt tươi; con người đôn hậu giàu sức sống.
Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ đầu, dường như khổ thứ hai, nhà thơ có phần (lành để đặc tả cảnh sóng nước, mây trời xứ Huế và cũng bộc lộ niềm hoài vọng bâng khuâng:
Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp bay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Nhịp điệu dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được khắc họa thành công: Gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chi khẽ đung đưa theo chiều gió. Khác với khố một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ ta, không những chỉ nhìn bằng mắt mà điều quan trọng hơn là còn “nhìn” bằng thế giới tâm linh của mình: Do đó, không có biên giới giữa thực và mộng và dường như càng về cuối thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: “Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó – Có chở trăng về kịp tối nay?”. Thuyên trăng thì có nhiều thi nhân nhắc đến. nhưng “sông Trăng” thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, niềm hy vọng, lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ, ở đây rõ ràng, không có sự đặc sắc của một bút pháp phác họa đúng linh hồn của một xứ sở, mà điều quan trọng nữa là: Những nét phác họa ấy gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng mở đến khôn cùng. Ấn tượng của người đọc về những điều nói trên sẽ được nhà thơ tô đậm qua khổ kết:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói. Do đó, phải chăng khổ thơ trên có nét tả thực, cũng giống như “hàng cau”, “lá trúc” “hoa bắp”… ở những khổ thơ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng: Bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy bóng người thôi (nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: Người thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá; nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? Ở đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương lung linh, huyền ảo. Nếu nhận ra rằng. Hàn Mặc Tử vốn là người rất mực tài hoa, luôn khao khát yêu thương; nhưng căn bệnh phong hiểm nghèo đã làm ông không có được một tình yêu trọn vẹn. Nhà thơ đã từng phải sống có độc, lúc thì trong một con thuyền nhỏ lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc thì khắc khoải bên dãy núi ven thành phố, và cuối cùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hòa chờ cái chết… Ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dỗi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này. Phải yêu người Vĩ Dạ, nói rộng ra là phải yêu người xứ Huế; hiểu xứ Huế, gắn bó với xứ Huế sâu sắc đến độ nào, thì thi sĩ mới nói về tình yêu, về xứ Huế đứng và hay như thế!
Cảm nhận về con người của Hàn Mặc Tử – Mẫu 2
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như chính tiếng lòng của Hàn Mặc Tử trong những năm tháng cuối đời. Ở đó ta tìm thấy sự cô đơn, tìm thấy sự khát khao yêu và được yêu, khát khao nắm giữ hạnh phúc và có cả sự tiếc nuối cho chính cuộc đời của tác giả.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Bức tranh thôn Vĩ được vẽ lên trong trí tưởng tượng của Hàn Mặc Tử. Thời gian sáng tác bài thơ này cũng chính là thời điểm ông đang chữa bệnh. Tất cả mọi thứ thuộc về thôn Vĩ giờ chỉ còn là miền ký ức.
Câu thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” có thể được hiểu là câu hỏi; nhưng cũng có thể là lời chào mời. Thôn Vĩ đẹp vậy sao anh không về chơi, bao lâu rồi anh chưa ghé thăm thôn Vĩ? Lời trách móc, mời mọc thật dịu dàng, đằm thắm nhưng lại gợi nhớ biết bao nhiêu kỉ niệm.
Hàn Mặc Tử yêu thiên nhiên thôn Vĩ Dạ với “nắng hàng cau”, với “vườn xanh mướt”. Hình ảnh “nắng mới lên” tạo cảm giác vô cùng ấm áp, dịu nhẹ. Đó là ánh nắng buổi sớm vô cùng dễ chịu. Ánh sáng ấy còn giúp khu vườn “mướt quá xanh như ngọc”. Không gian càng trở nên rộng lớn, tươi mát hơn và tràn đầy sức sống.
Thiên nhiên và con người thôn Vĩ Dạ luôn làm Hàn Mặc Tử thương nhớ khôn nguôi. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”; chữ “điền” ấy có nhiều nghĩa khác nhau, đó có thể là hình ảnh chiếc cửa sổ được che ngang hay chính là khuôn mặt người con gái hiền hậu xứ Huế, e ấp, ngượng ngùng sau chiếc lá trúc.
Những kí ức, vẻ đẹp của con người, thiên nhiên xứ Huế được Hàn Mặc Tử gợi nhớ, ôm ấp trong lòng. Ông khát khao được về nơi ấy với niềm mến thương khôn xiết.
Nhà thơ Hàn Mặc Tử như ôm trọn nỗi buồn, ông có cái tôi buồn thương man mác.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Nhịp thơ 4/3, kết hợp với hình ảnh gió, mây, hoa, trăng, thuyền tạo nên hình ảnh chia lìa. Hàn Mặc Tử đã chuyển đổi không gian thôn Vĩ trở nên cao rộng hơn, thời gian đã được chuyển từ sáng sang tối. Tâm trạng của nhà thơ cũng được chuyển đổi, từ vui tươi, nhớ nhung sáng buồn thiu “dòng nước buồn thiu. Cảnh vật đã được mang tâm trạng của con người, giống như câu thơ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du).
“Gió theo lối gió, mây đường mây” có cấu trúc hài hòa, cân xứng; tạo sự xa vời, chia cách. Cảnh vật đều trở nên mộng mơ nhưng đầy cách trở “hoa bắp lay”. “Thuyền ai” đậu bến sông gợi nhớ những câu hò xứ Huế hay nhưng buồn. Chiếc thuyền còn gắn liền với vầng trăng tạo sự hùng vĩ trong thiên nhiên; nhưng cũng chính vì thế mà càng cảm thấy con người thêm phần nhỏ bé. Thuyền, trăng, bến còn được sử dụng nhiều làm hình ảnh cho tình yêu đôi lứa:
“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng”
(Ca dao).
Hàn Mặc Tử đã sử dụng rất sáng tạo hình ảnh này nhưng nhuộm màu đơn côi, đau buồn hơn. Lời hỏi “có chở trăng về kịp tối nay” như thúc giục, như níu giữ. Thời gian với nhà thơ quý giá hơn bao giờ hết, liệu có đủ để ông được sống với khát vọng của mình. Khổ thơ là lời bộc bạch đau buồn, là nơi ông bày tỏ khao khát được hạnh phúc, lời khẩn cầu vô cùng nghẹn ngào.
Bước sang khổ thơ cuối cùng, Hàn Mặc Tử hướng về thực tại, hướng đến con người, hoài nghi về ảo ảnh.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Khổ thơ cuối này mọi sự vật dường như đã được xoá nhoà. Áo trắng của em tinh khôi, hòa với làn sương khói vừa hư vừa thực khiến khó lòng xác định. “Khách đường xa” là ước mong được gặp, cũng là càng muốn gặp đường càng xa. Hàn Mặc Tử càng cảm thấy băn khoăn, không thể nào xác định được tình cảm. Liệu chăng tình cảm ấy có thật, hay giống như làn sương khói mịt mờ, không thể nắm giữ?!
Cả bài thơ điệp khúc “ai biết”, “thuyền ai”, “vườn ai” được nhà thơ sử dụng liên tục; đó cũng tạo nên sự bâng khuâng, xa vắng. Cảm giác hụt hẫng, nhớ mong khiến ông chỉ biết thở dài với chút hi vọng mong manh.
Hình ảnh trong bài thơ được đan cài vô cùng chặt chẽ, ở đó có cảnh và người; có hiện thực và hư ảo. Bằng như câu thơ nhẹ nhàng đã tạo nên một cái tôi Hàn Mặc Tử yêu thiên nhiên tha thiết, bên cạnh đó là sự đau buồn, dự cảm chia ly, sự tuyệt vọng cũng như sự hoài nghi.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ hay nhất, thể hiện rõ một con người Hàn Mặc Tử đầy sự xáo trộn, mang trong mình nhiều khát vọng. Từng dòng thơ cứ ám ảnh người ta mãi như cách mà ông đã để lại dấu ấn của mình giữa rừng thi ca Việt Nam, dù nhỏ thôi nhưng day dứt.
Cảm nhận về con người của Hàn Mặc Tử – Mẫu 3
Thơ là tình cảm, cảm xúc, là tâm tư, nỗi niềm của mỗi nhà thơ. Trong phong trào thơ mới, chủ đề tình yêu có không ít những bài thơ hay, gắn với những tên tuổi mọi thời từ Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính với những bài thơ mang đậm phong cách. Trong số đó phải kể đến “Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm là một bài thơ về tình yêu, nhưng đồng thời nó còn là linh hồn thi sĩ mang phong cách riêng, khác biệt của Hàn Mặc Tử.
Nói đến thơ là ta nói đến sự gắn gọn, cô đúc, từ ngữ ít mà mang nhiều ý nghĩa. Thơ không thể là những truyện ngắn, những câu chuyện. Thơ không cần thiết phải nhiều từ, đôi khi từ một từ trong thơ ta có thể cảm nhận toàn bộ bài thơ, đó chính là sự khác biệt giữa thơ và truyện. Thơ là ta đang dùng trái tim để cảm nhận, trái tim cảm nhận tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình, thơ không nhất thiết phải dài, từ ngữ phải luôn sống. Thơ đôi khi chỉ là lời chân thành, mộc mạc, phát ra từ trái tim, nó không quan tâm đến hình xác của sự sống, mọi thứ hình thức bên ngoài, mà nó chỉ cần cảm nhận bằng trái tim và truyền đi một chút linh hồn của cảnh vật, thông qua linh hồn thi sĩ.
Thông qua linh hồn Hàn Mặc Tử, tình yêu thiên nhiên tươi đẹp, ý thức cá nhân, đã hiện rõ trong “Đây Thôn Vĩ Dạ”, bản thân người nghệ sĩ ấy đã không có được một cuộc sống bình thường như bao người. Mọi ước mơ, hoài bão như bị vùi dập toàn bộ khi Hàn Mặc Tử bị bệnh, một căn bệnh phải cách ly với thế giới bên ngoài, một cuộc sống tù túng, ngột ngạt vô cùng. Nhưng thi sĩ vẫn không vì đó mà bỏ cuộc, niềm đam mê nghệ thuật vẫn luôn cháy trực trong con người Hàn Mặc Tử. Bỏ qua những đau đớn về xác thịt, người nghệ sĩ ấy vẫn sáng tạo nghệ thuật, say sưa những lúc tưởng như vô cảm, thì thơ ca chính là giải thoát cho con người cô độc ấy, đang sống nhưng không phải là sống.
Mở đầu về con người Hàn Mặc Tử, là một câu hỏi vốn dĩ không cần có câu trả lời.
“Sao anh không về chơi thôn vĩ”.
Bởi đó không những là câu hỏi? mà có thể là lời mời, hay lời trách mang tính tình cảm của cô gái. “Thôn Vĩ”, nơi nhân vật trữ tình đã từng đến, anh và em, có lẽ mới gặp nhau một lần, nhưng tình cảm là vạn lần. Cái cảnh tượng này tưởng như đều đến từ hai phía, nhưng cũng chỉ là do anh tự nhớ ra mà thôi, từ rất lâu, từng hình ảnh của thiên nhiên Thôn Vĩ vẫn luôn in sâu trong tâm trí của anh.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Những hình ảnh cảm xúc này từ lâu đã chôn sâu trong tâm trí của anh, nhưng nay có lẽ vì một cái gì đó đã đánh thức giấc ngủ của tình cảm đó, nó đã trỗi dậy mạnh mẽ, với cảm xúc mãnh liệt. “Nắng mới lên”, một hình ảnh vô cùng đẹp, phải một người sống vô cùng lâu thì mới có thể cảm nhận được những tia nắng ấm áp rơi xuống mặt đất, qua khe lá, kẽ lá. Sáng sớm tinh sương, mờ sương long lanh trên từng chiếc lá, chỉ cảm nhận thôi cũng thấy vô cùng tuyệt mỹ. Từ những cái nhỏ nhất cũng in sâu vào tâm trí anh. Động lực nào khiến nhân vật trữ tình anh, lại có thể nhớ sâu đậm như vậy? vì tình yêu, hay vì thiên nhiên quá đẹp, tấm lòng nghệ sĩ không thể cưỡng nổi?
“Vườn ai” ở đây, vườn ai có thể là vườn em, vườn anh, vườn của chúng ta. Có lẽ vườn mà anh muốn nói tới, là vườn tình của hai chúng ta. “Mướt” một cái gì đó của sự ướt, sự trong suốt của buổi sáng sớm. Một khu vườn mướt xanh như ngọc, xanh như sự trong xanh, cao xa của bầu trời. Để rồi xuất hiện một “mặt chữ điền”. Thường với một người con gái mang gương mặt chữ điền, thể hiện sự phúc hậu, đầy đặn, phẩm chất tốt đẹp của một người con gái. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” có thể là nhân vật trữ tình, tự tưởng tượng ra hình ảnh một cô gái, qua lá trúc hay là hình ảnh thật mà anh nhớ khi còn ở thôn Vĩ Dạ. Nhìn thấy sự xuất hiện của mặt chữ điền, như báo hiệu một cái gì đó vượt trên tình yêu thiên nhiên. Cả khổ thơ hầu hết là về một bức tranh thiên nhiên Thôn Vĩ mơ mộng, nhưng đồng thời qua bức tranh đó Hàn Mặc Tử cũng cho người đọc thấy được sự chớm nở của tình yêu, nó thật đẹp và thật mơ mộng. Tình yêu đó khiến ta vượt qua mọi thử thách, thật mãnh liệt.
Đang say sưa trong bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy, bỗng như bị đột ngột thay đổi cảm xúc như vỡ ra khi ta thấy sự đối lập, “gió theo lối gió mây đường mây”.
Theo quy luật tự nhiên, gió đi chiều nào theo chiều đó, không thể thay đổi. Nhưng con mắt cảm nhận của Hàn Mặc Tử, thì mọi thứ lại trở nên trái ngược, đối đầu nhau. Có lẽ do trong lòng đang có sự chia rẽ khó giải quyết, nên thiên nhiên, mọi thứ cũng như lòng người cũng như “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tất cả mọi cảnh vật từ dòng nước vẫn vô cảm, cũng trở nên biết buồn, có cảm xúc như một con người.
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”.
Tâm hồn con người đã buồn, thì dù cảnh vật có vô cảm đến đâu, cũng có thể trở nên có cảm xúc, cũng biết vui, buồn cùng con người buồn thiu. Có lẽ thi sĩ dùng thiên nhiên, cảnh vật để gián tiếp thể hiện nỗi lòng, tâm tư khó giãi bày của mình. Dòng nước, hoa bắp, giờ đến Thuyền ai? lại thêm một sự nghi vấn không hồi đáp, “thuyền Ai” là thuyền của ai? không ai biết, có lẽ anh cũng không biết, mà nếu có biết cũng không dám chắc là của ai. Một không gian yên tĩnh, không một bóng người bỗng xuất hiện. Thuyền ai tất cả mọi thứ, mọi cung bậc cảm xúc như dồn về, thu nhỏ bằng từ “kịp”, chỉ là một từ vốn bình thường, tưởng chừng như không quan trọng, nhưng lại rất quan trọng. “Kịp” như một cái gì đó mong muốn thuyển ai đó có thể tới kịp trong tối nay, tại thời điểm này. Nhận thức rất rõ sự tồn tại của bản thân, không còn được bao lâu, nhân vật trữ tình đã vô cùng khao khát, có thể kịp, để có thể thưởng chọn cảm xúc mà bao lâu ao ước, và ước muốn mãi chỉ là ước. Biết chắc rằng điều đó mãi không thể thành sự thật, vì không có ai biết được ước muốn đó, nhưng anh vẫn hi vọng, vẫn chờ đợi “Thuyền ai”, có thể chở trăng về kịp tối nay.
Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử vô cùng nhiều, trăng đối với thi sĩ như một tri kỷ muôn đời, giữa một nơi cách biệt với thế giới bên ngoài, thì còn gì ngoài ánh trăng trên trời làm bạn, làm cảm hứng vơi đi nỗi cô đơn. Qua thơ Hàn Mặc Tử, ta thấy thơ không nhất thiết phải nhìn bề ngoài xem có đẹp, có sống, mà quan trọng là ý nghĩa nó mang lại như thế nào? dù biết là cuộc đời tăm tối. Mọi thứ không thể trở thành hiện thực, nhưng nhân vật trữ tình nói chung và Hàn Mặc Tử nói riêng vẫn luôn hi vọng mang trong mình niềm ấp ủ, bởi họ luôn biết không có gì là đủ cả. Cuộc sống này luôn đòi hỏi ta phải sống, phải hi vọng, chỉ cần ta luôn có một trái tim trong sáng, luôn sống với cảm xúc của mình.
Hai khổ thơ đầu ta vẫn còn cảm nhận được cái gì đó từ hiện tại. Mặc dù là trong quá khứ, nhưng đến khổ thơ thứ ba đã thực sự thuộc về cõi mơ.
“Mở khách đường xa khách đường xa”. Mở khách đường xa bỗng trở nên xa lạ, lập đi lập lại càng thể hiện khoảng cách giữa hai người. mọi thứ đều trở nên mờ, ảo ảo, thật thật, khó phân biệt như đang trong cõi mơ.
Từ “vườn ai”, “Thuyền ai”, “khách đường xa”, bỗng phát lại bằng từ “em”, nhân vật trữ tình em mới thực sự xuất hiện.
“Áo em trắng quá nhìn không ra”, không phải là nhìn không ra, mà em cao quý quá, hồn nhiên quá. Anh không thể nào với tới sự trong sáng đó được, ý thức rất cao về bản thân, biết tình cảm của mình, nhưng không vì đó mà quên đi vị trí bản thân mình. Áo trắng thực ra chỉ là cái cớ, làm giảm bớt đi sự tuyệt vọng về bản thân, lấy mọi lý do để che đi cái cô đơn trong tâm hồn, sương khói làm mờ đi hình ảnh của em, làm em dần xa anh, mà anh thì bất lực, không thể làm gì. Một câu hỏi lại xuất hiện “Ai biết tình ai có đậm đà”, tình ai? của em hay của anh nặng hơn, sâu hơn. Cũng không ai có thể trả lời được. Có lẽ anh, tình cảm của anh rất đậm sâu mới có thể viết lên những khung cảnh, những tâm tư đã bị vùi sâu bao lâu một cách chân thật như vậy.
Sử dụng nhiều câu hỏi tu từ, đối lập giữa thiên nhiên, để nói lên sự đối lập trong con người, tình cảm từ trái tim có một sức sống vô cùng mạnh mẽ, nó chân thành, sâu lắng, nhưng rất đẹp. Qua linh hồn thi sĩ Hàn Mặc Tử, đã mang đến cho ta bao cảm xúc vui, buồn, hạnh phúc, khổ đau. Từ linh hồn của cảnh vật, của thiên nhiên ta cảm nhận tâm hồn con người, tâm hồn thi sĩ. Thơ là vậy, chỉ cần ngắm nhưng lại mang ý nghĩa vô cùng to lớn, có những bài thơ đánh thức tâm hồn con người, cứu tâm hồn từ cõi chết trở về với cảm xúc.
Không chỉ riêng Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu hay Huy Cận cũng có những phong cách riêng, luôn mang ý nghĩa về cuộc sống đến với độc giả qua thơ. Nếu như Hàn Mặc Tử thể hiện sức sống mãnh liệt của tình yêu, thì Xuân Diệu lại mang tới cho người ta một thông điệp về sức sống, bước đi của thời gian. Hãy sống và thưởng thức trọn vẹn những gì mình đang có ở hiện tại, đừng để nó vượt qua một cách vô nghĩa./.
Vẻ đẹp con người Hàn Mặc Tử – Mẫu 4
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng qua hồn thơ phong phú, sáng tạo, đầy bí ẩn, người đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế của ông. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác để đời của Hàn Mặc Tử, đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Chính vì vậy, qua bao nhiêu thế hệ, người ta có ba ý kiến nhận định về bài thơ: đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín; là lời yêu thương với một miền quê; là niềm khao khát được sống trong niềm sẻ chia, đồng cảm được trở về với cuộc đời. Đoạn thơ đầu của thi phẩm đã thể hiện một cách thật tha thiết, xúc động những tâm tình ấy.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
“Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử viết khi đang mắc bệnh nan y – bệnh phong, căn bệnh khiến nhiều người xa lánh, hắt hủi ông nên ông luôn mang trong mình nỗi niềm khao khát được sẻ chia, đồng cảm, muốn trở về với cuộc đời. Nằm trong bệnh viện và nhận được tấm bưu thiếp của người con gái ông thầm thương trộm nhớ, Hàn Mặc Tử lấy đó làm cảm hứng để bài thơ được ra đời. Qua đó, ông đã vẽ nên bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi niềm cô đơn của ông về một mối tình đơn phương xa xăm vô vọng. Không chỉ vậy, bài thơ cũng là tấm lòng yêu tha thiết của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống, con người xứ Huế.
Mở bài bài thơ, tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” vừa như một lời chào thân mật vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ. Không thô lỗ, bỗ bạ mà hết sức ân cần, tế nhị. Vì thôn Vĩ có em, vì thôn Vĩ là quê hương anh, là nơi thân thiết của anh. Tuy nhiên, có thể hiểu đây là lời tự nhủ, tự trách của tác giả. Ông tự hỏi bản thân sao bấy lâu nay không về thăm lại vùng đất ấy, thôn quê ấy. Ông khao khát được về thăm quê hương, nỗi nhớ thương mảnh đất ấy cứ đau đáu mãi. Ngặt nỗi, lúc ấy Hàn Mặc Tử đang bị bệnh, làm sao có thể trở về được mà cũng có thể mãi không trở về được…
Qua ba câu thơ sau, khung cảnh thiên nhiên và con người hiện lên trong hoài niệm, tưởng tượng của Hàn Mặc Tử rất đỗi bình dị, quen thuộc:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Nắng mới lên là nắng sớm buổi bình minh. Ánh sáng tinh khôi, rực rỡ ấy làm sáng bừng không gian rộng lớn, khoáng đạt của xứ Huế. Điệp từ “nắng” không chỉ thể hiện sự tràn ngập ánh sáng, sức sống mà còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Câu thơ ấy đã vẽ nên một hàng cau đầy sức sống, mãnh liệt đang vươn lên đón lấy những tia sáng đầu tiên của buổi sớm. Nhớ đến Vĩ Dạ, nhà thơ nhớ đến hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hình ảnh hàng cau, vun vút cao quá đỗi quen thuộc đối với người dân thôn Vĩ. Nhịp thơ 1/3/3 như bước chân khoan thai của bất kì vị khách nào, trầm ngâm nhìn nắng mới lên trên những hàng cau xanh biếc rạng ngời.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ như lời khen ngợi, trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp thanh tao, mơn mởn của cỏ cây, thiên nhiên. Vườn ai ? Phải chăng là vườn nhà em ? Cảnh cũ người xưa nhưng vì lâu chưa về nên mới thốt lên ngỡ ngàng như vậy. Tác giả dùng biện pháp tu từ so sánh “xanh như ngọc” và từ “mướt”, như vậy có thể thấy thôn Vĩ không chỉ xinh đẹp mà còn rất trù phú. Câu hỏi tu từ “Vườn ai mướt quá” như tiếng reo của trẻ thơ, một tiếng reo trong sung sướng, một lời trầm trồ khen ngợi buột ra tự nhiên khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Tưởng chừng như nghe thấy tiếng nhựa sống đang chảy trong cây. Tất cả đều rạo rực, đều đầy sức sống. Chỉ có vườn xuân mới xanh mướt, phì nhiêu đến vậy. Hay chỉ có vườn nhà em mới đẹp đẽ, hữu hình đến thế.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Nhắc đến con gái Huế, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh cô gái duyên dáng, thướt tha trong tà áo dài tím mộng mơ cùng chiếc nón lá trắng, dịu dàng, yểu điệu mà tinh tế. “Mặt chữ điền” chỉ tướng mạo phúc hậu, dịu dàng. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ tài tình, gợi lên hình ảnh gương mặt thấp thoáng của thiếu nữ. Một nét vẽ ấy đã miêu tả vẻ đẹp thanh tao, dịu dàng. Một nét vẽ ấy đã vẽ ra dáng vẻ e lệ, ẩn sau lá trúc của người con gái. Và chính hình ảnh cô gái e lệ thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người dưới ngòi bút đầy sắc sảo của Hàn Mặc Tử đã kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một bức tranh phong cảnh tươi đẹp, đầy sức sống và có sức hút lạ lùng.
Bằng âm điệu tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh thôn Vĩ Dạ thật mơ mộng, bình dị. Qua đó cho thấy tình yêu to lớn của ông đối với mảnh đất yên bình, trù phú này. Tuy nhiên, ẩn sau mỗi ý thơ là nỗi niềm luyến tiếc, vấn vương về người và cảnh nơi đây. Ông vấn vương, trăn trở về mối tình thầm kín của mình với người con gái thôn Vĩ. Ông vấn vương, thương nhớ về cảnh sắc tươi đẹp của thôn Vĩ. Nhưng tất cả đối với nhà thơ thời điểm ấy chỉ còn là hoài niệm.
Nếu ở khổ một là không gian vui tươi, đầy sức sống thì ở phần còn lại của bài thơ, giọng thơ chùng xuống, ảm đạm hơn nhiều. Chính xác hơn, bắt đầu từ khổ hai, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ tâm trạng đau buồn, u uất của mình. Lúc bấy giờ, ông mắc bệnh phong, căn bệnh khiến ông bị mọi người xa lánh. Sống trong lãnh cung của sự chia lìa, tác giả ao ước, khát khao một vị tri âm, tri kỉ. Ông khao khát hơn bao giờ hết về sự sẻ chia, giao cảm. Ông khát khao tình người, tình đời, hạnh phúc. Ông khát khao được trở về cuộc sống bình thường, được trở về thôn Vĩ Dạ. Ông biết căn bệnh hiểm nghèo của mình, biết thời gian minh còn rất ít. Vậy nên nhà thơ vừa như bồn chồn, lo lắng vừa như hy vọng một cái gì đó sẽ rời xa. Đây chính là nỗi niềm ao ước tha thiết cùng nỗi buồn man mác khi tác giả hoài niệm của tác giả.
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp lãng mạn đầy sức gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, Hàn Mặc Tử đã họa nên bức tranh nên thơ, tươi đẹp của một miền quê. Và ẩn sau đó không chỉ là tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín hay lời yêu thương với một miền quê mà còn là nỗi niềm khao khát được đồng cảm, được trở về với cuộc đời.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Bài thơ như bông hoa rực rỡ giữa rừng hoa của văn học nước nhà. Qua đó cho thấy tâm hồn thanh khiết, yêu đời dù là trong lúc khổ đau, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận về con người của Hàn Mặc Tử qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Dàn ý & 3 bài văn hay lớp 11 của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.