Phân tích vẻ đẹp thế hệ trẻ qua Bài thơ tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi tuyển chọn 5 mẫu hay nhất, giúp các em thấy rõ vẻ đẹp của những người lính lái xe, những cô gái thanh niên xung phong trong kháng chiến chống Mỹ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi đã dựng lên trọn vẹn vẻ đẹp của những người thanh niên trẻ trung, lạc quan. Họ chính là biểu tượng cho sức trẻ, ý chí, tinh thần của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng gian lao.Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Pgdphurieng.edu.vn:
Dàn ý vẻ đẹp thế hệ trẻ qua Bài thơ tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi
I. Mở bài:
- Giới thiệu về bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật và truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
II. Thân bài:
a. Vẻ đẹp người lính trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”:
- Trên tuyến đường Trường Sơn đầy hiểm nguy, bom đạn khiến xe không còn được nguyên vẹn.
- Trước tình thế ấy người lính vẫn không hề run sợ, họ đường hoàng vững tay lái trên cùng đường chiến trận:
- Hiểm nguy họ chẳng né tránh, chiến đấu vì lý tưởng giành độc lập, thống nhất đất nước.
- Với tâm thế sẵn sàng, lòng quyết tâm, họ xem khó khăn như là lẽ thường
- Những người lính cùng nhau chia sẻ những khó khăn, động viên nhau qua những cái bắt tay.
=> Dũng cảm, lạc quan, ngạo nghễ, ngang tàng trên đoạn đường hành quân
b. Vẻ đẹp người lính trong “Những ngôi sao xa xôi”.
- Họ là những cô gái yêu nước, kiên cường, giàu trách nhiệm.
- Tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình họ cống hiến nơi chiến trận.
- Công việc phá bom, lấp hố bom rất hiểm nguy, họ phải đối mặt với cái chết bất kể lúc nào nhưng vẫn đương đầu không sợ hãi.
- Vẻ đẹp trong tâm hồn: những cô gái yêu đời, hồn nhiên, lấp lánh những yêu thương của tình đồng chí, đồng đội họ dành cho nhau
- Phương Định là một cô gái mơ mộng, thích làm đẹp, cô có một tâm hồn nhạy cảm và luôn quan tâm đến mọi người, cô còn thích hát, mê hát, thích tận hưởng những cơn mưa bất chợt và dễ xúc động khi nhớ về quê nhà.
- Thao lại là một người chị cả điềm tĩnh, chín chắn và cũng đầy dũng cảm, táo bạo.
- Nho – một cô em út đáng yêu, nhẹ nhàng, sở thích của Nho là thêu thùa, thích được quan tâm và nũng nịu. Trái lại với nét trẻ con ấy, Nho có bản lĩnh đầy rắn rỏi khi xong pha chiến trận.
=> Những cô gái trẻ Hà Nội: bất khuất, kiên trung, chẳng ngại gian khổ, khó khăn, khát khao chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
III. Kết bài:
- Cảm nghĩ về giá trị của hai tác phẩm
Vẻ đẹp thế hệ trẻ qua Bài thơ tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 1
Thơ ca Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước không chỉ tập trung lên án tội ác của kẻ thù, tái hiện sức mạnh, tinh thần bất khuất, tự cường của quân và dân ta mà qua những bài văn, áng thơ ta còn thấy được chân dung đẹp đẽ, chân thực của những người chiến sĩ. Ta có thể bắt gặp hình ảnh những người lính kiên cường, bất khuất, lạc quan và luôn giữ vững một niềm tin mãnh liệt vào tương lai độc lập của đất nước qua Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật và truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác vào năm 1968, khắc hoạ vẻ đẹp của những lính lái xe anh dũng trên tuyến đường Trường Sơn xưa. Họ vừa hiên ngang, bản lĩnh lại vừa lạc quan, yêu đời.
“Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Trên tuyến đường Trường Sơn đầy hiểm nguy, bom đạn khiến xe không còn được nguyên vẹn. Trước tình thế ấy người lính vẫn không hề run sợ, họ đường hoàng vững tay lái trên cùng đường chiến trận:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Những người lính nổi bật với tư thế hiên ngang, bất khuất, chủ động đối mặt với mọi hiểm nguy, chiến đấu vì lý tưởng chính nghĩa. Mưa bom bão đạn của kẻ thù không chỉ tàn phá khiến những chiếc xe trở nên méo mó, biến dạng mà còn gây ra rất nhiều khó khăn, thách thức sức chịu đựng của những người lính lái xe trên những hành trình dài.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Trước mưa bụi dặm đường, bom đạn chiến trường nếu không vững vàng, kiên định có lẽ họ sẽ nhụt chí, sợ hãi, không thể hoàn thành nhiệm vụ tiếp viện. Nhưng với tâm thế sẵn sàng, lòng quyết tâm, họ xem khó khăn như là lẽ thường:
“Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Những người lính có tâm thế đầy bình thản trước sóng gió, dù vất vả thiếu thốn mà nụ cười vẫn nở trên môi “mặt lấm cười ha ha”. Ta như cảm nhận được những niềm vui bình dị nơi họ, tiếng nói vui cười vẫn rộn ràng giữa rừng hoang hiểm nguy.
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”
Họ là những người trẻ cùng chung ý chí, chúng quyết tâm giải phóng dân tộc. Họ gặp gỡ, chung lòng quyết đấu, sau nhiệm vụ về tụ họp niềm nở trao cho nhau những cái bắt tay nhiệt thành, cùng khích lệ, động viên nhau vững lòng cố gắng. Họ giờ đây những người anh em trong một gia đình, tình cảm ấm cúng, dạt dào:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Trước đạn bom chiến trường, xe bị thương, bị hỏng, xe bị tàn phá đến trơ tàn nhưng lòng người thì không như thế, ý chí thì không gì có thể bị đẩy lùi. Trái tim người lính vẫn gắn góc băng qua những nẻo đường phục vụ chiến đấu:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe không có xư
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Với lý tưởng, niềm tin hướng về dân tộc, với một trái tim nhiệt huyết, người chiến sĩ nào có ngại gì giông gió sa trường, vẫn hết lòng chiến đấu hướng về miền Nam ruột thịt, hướng về ngày đất nước giải phóng, nước nhà thống nhất.
Chất lính trong thơ Phạm Tiến Duật vừa vừa ngang tàng, ngạo nghễ, vừa dí dỏm, hóm hỉnh thì chất lính trong Những ngôi sao xa xôi được thể hiện qua tinh thần, trách nhiệm và bản lĩnh hơn người của những cô gái thanh niên xung phong. Họ là những cô gái trẻ kiên cường, yêu nước, giàu trách nhiệm nên đã xung phong đi lính ở độ tuổi đẹp nhất tuổi trẻ. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình họ cống hiến nơi chiến trận. Cả Nho, Định, Thao đều chiến đấu đầy dũng cảm, hiên ngang, cẩn trọng, cố gắng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, hỗ trợ cho cách mạng. Công việc phá bom, lấp hố thật rất hiểm nguy, họ phải đối mặt với cái chết bất kể lúc nào, vậy mà chưa một lần ba cô gái ấy than vãn, hay tỏ ra sợ hãi, luôn đi thẳng, đối mặt với bom bằng một cái đầu tỉnh và một trái tim đầy quả cảm. Không chỉ thể hiện một tinh thần thép khi thực hiện nhiệm vụ, ba chiến sĩ trẻ làm việc trên tuyến đường Trường Sơn còn là những cô gái yêu đời, hồn nhiên, lấp lánh những yêu thương của tình đồng chí, đồng đội họ dành cho nhau. Phương Định là một cô gái mơ mộng, thích làm đẹp, cô có một tâm hồn nhạy cảm và luôn quan tâm đến mọi người. Phương Định còn thích hát, mê hát, thích tận hưởng những cơn mưa bất chợt và dễ xúc động khi nhớ về quê nhà, về quê hương của mình. Thao lại là một người chị cả điềm tĩnh, chín chắn và cũng đầy dũng cảm, táo bạo. Thao luôn yêu quý cả Nho và Định, lo lắng, chăm sóc cho Nho từng ly từng tí khi Nhớ bị thương. Thao cũng rất thích hát và thích chép nhạc, đặc biệt là những lời hát khi Phương Định hát. Với Nho, một cô em út đáng yêu, nhẹ nhàng, sở thích của Nho là thêu thùa, thích được quan tâm và nũng nịu. Trái lại với nét trẻ con ấy, Nho có bản lĩnh đầy rắn rỏi khi xong pha chiến trận.
Ba người con gái Hà Nội với những cá tính riêng nhưng ở họ đều lấp lánh những phẩm chất đáng tự hào của những người lính trẻ: bất khuất, kiên trung, chẳng ngại gian khổ, xem khó khăn chỉ là thách thức với khát khao chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê đều chọn đề tài người lính làm chất liệu sáng tác, tuy cách thức biểu hiện khác nhau song đều ca ngợi những phẩm chất đầy tốt đẹp của họ. Những tác phẩm văn học ấy luôn mãi là bài ca sáng chói vinh danh những người hùng thầm lặng, cống hiến mùa xuân cuộc đời cho đất nước, Tổ quốc mình.
Vẻ đẹp thế hệ trẻ qua Bài thơ tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 2
Chiến tranh đã đi qua hơn ba mươi năm. Thế nhưng, những ký ức về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của dân tộc, ký ức về những con người anh hùng trong một thời đại anh hùng thì vẫn tươi mới, nguyên vẹn mỗi khi ta đối diện từng trang sách trong những tác phẩm văn học của thời kỳ này.
Bằng cảm hứng lãng mạn, kết hợp với khuynh hướng sử thi, văn học Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước đã xây dựng trong văn thơ tượng đài những chiến sĩ anh hùng. Họ là những “Thạch Sanh của thế kỷ XX”. Chiến công của họ đẹp và phi thường như huyền thoại.
Có hai tác phẩm được coi là tiêu biểu cho cảm hứng ngợi ca người chiến sĩ anh hùng của văn học thời kỳ này, đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật và “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Mỗi tác phẩm là một bức tranh đẹp về hình tượng người chiến sĩ điển hình cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh quang vinh.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969, rút từ tập thơ “Vầng trăng, quầng lửa” là một bài thơ độc đáo trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm 1969 – 1970. Bài thơ khắc họa vẻ đẹp người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Vẻ đẹp độc đáo được thể hiện ngay trong tên gọi của bài thơ. Đó là sự thống nhất giữa hai sự vật tưởng như tương phản gợi ấn tượng về chất thơ lãng mạn và sự trần trụi khốc liệt.
Khai thác đề tài chiến tranh, tác giả không chỉ tô đậm tính chất ác liệt, tàn khốc nhằm làm nổi bật sự phi thường của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam mà Phạm Tiến Duật đã có cách nhìn, cách cảm khá mới lạ và thú vị. Từ trong sự tàn khốc ấy, chất thơ vẫn cứ tuôn trào!
Câu thơ mở đầu như một lời tự sự xen lẫn miêu tả:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Nó có tác dụng vừa lý giải sự bất thường của hình ảnh chiếc xe độc đáo “không có kính” vừa tô đậm sự ác liệt của chiến trường “bom giật, bom rung…” Đây là hình ảnh vừa lạ vừa chân thực. Lạ là vì trong thơ, người ta thường chọn những sự vật hoàn thiện, hoàn mỹ để miêu tả nhằm tạo thiện cảm với người cảm nhận nó. Với những chiếc xe cũng vậy! Phải sang trọng, bóng loáng chứ sao lại trần trụi, méo mó, biến dạng thế này!
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Nhưng đấy là sự thật. Không phải một chiếc như thế mà tác giả nhìn thấy cả một tiểu đội xe như thế! Bởi vì thời điểm mà bài thơ ra đời có thể nói là ác liệt nhất trong thập niên 60 của thế kỷ XX. Đường Trường Sơn – nơi vận chuyển vũ khí lương thực vào chi viện Miền Nam – những năm tháng này là “túi bom, chảo lửa”. Và trên nền hiện thực tàn khốc ấy đã xuất hiện hình ảnh đẹp đẽ, phi thường của người chiến sĩ lái xe. Làm chủ những phương tiện ấy, người chiến sĩ không hề nản chí hay run sợ mà trái lại, lại bình tĩnh đến lạ thường:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Vẻ đẹp kiêu hùng được toát ra từ tư thế ngồi “ung dung” đến cái nhìn “nhìn thẳng”. Các từ láy “ung dung” cùng với nhịp thơ nhanh, đều, dứt khoát 2/2/2 diễn tả vẻ đẹp khoan thai, thản nhiên, tự tin của người chiến sĩ. Điệp từ “nhìn” gợi lên sự nối tiếp liên tục của những hình ảnh chiến trường như một đoạn phim đang quay chậm:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Các thủ pháp nhân hóa, so sánh, ẩn dụ đã góp phần làm cho hình ảnh thơ thêm sinh động. Tưởng rằng làm chủ những chiếc xe không kính, người chiến sĩ chỉ thấy những khó khăn chồng chất khó khăn. Nhưng không! Nó đã làm tăng những cảm giác mới mẻ mà chỉ có người chiến sĩ khi ngồi trên những chiếc xe như thế mới cảm nhận được một cách rõ ràng, mãnh liệt… Hình ảnh “gió vào xoa mắt đắng”, “con đường chạy thẳng vào tim” tạo ấn tượng độc đáo. Chiếc xe như đang trôi bồng bềnh trong thiên nhiên hoang dã của núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Chất thơ cùng với vẻ đẹp lãng mạn toát lên từ đó. Nhưng có thể nói đẹp nhất là thái độ, tinh thần dũng cảm bất chấp gian khổ để chiến đấu và chiến thắng:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Vẻ đẹp được toát lên từ lời thơ giản dị, giàu “chất lính”, hình ảnh thơ mộc mạc. Điệp ngữ “ừ thì”, “chưa cần” vang lên như một lời thách thức, chủ động chấp nhận gian khổ. Một giọng thơ tự tin, ngang tàng. Một tiếng cười “ha ha” hồn nhiên. Tất cả đã toát lên vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe.
Đời sống chiến trường gian khổ là thế. Sự sống và cái chết ở đây chỉ là gang tấc. Thế nhưng tình yêu thương đồng chí, đồng đội vẫn tỏa sáng lạ thường.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Có thể nói rằng, khai thác chất liệu nghệ thuật của đời sống chiến tranh, Phạm Tiến Duật đã rất thành công trong việc khắc họa người chiến sĩ lái xe Trường Sơn bằng những hình ảnh, chi tiết vừa chân thực, gân guốc, mộc mạc vừa lãng mạn nên thơ.
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
“Trái tim” ở đây chính là trái tim chứa chan tình yêu Tổ quốc đã giúp người chiến sĩ lái xe làm nên những kỳ tích phi thường. Vẻ đẹp hào hùng của họ tỏa sáng cả bài thơ; đủ làm sống lại trong lòng chúng ta một thời oanh liệt của anh bộ đội cụ Hồ. Chất anh hùng ca dào dạt tạo nên vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Cùng với chủ đề ngợi ca vẻ đẹp người chiến sĩ, nhưng khác với nhà thơ Phạm Tiến Duật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, nhà văn Lê Minh Khuê trong “Những ngôi sao xa xôi” đã đi tìm và khai thác vẻ đẹp ấy qua hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong.
Truyện viết về cuộc sống và chiến đấu vô cùng gian khổ của những nữ thanh niên xung phong – những cô gái “Ba sẵn sàng” trên tuyến đường Trường Sơn chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc. Mặc dù cốt truyện đơn giản, nhưng tác giả đã rất thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp người nữ chiến sĩ qua miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo và tinh tế.
Nổi bật trong truyện là ba gương mặt đẹp của tổ trinh sát mặt đường. Họ có những nét tính cách chung của người nữ thanh niên xung phong Trường Sơn thời chống Mỹ nhưng ở mỗi nhân vật lại lấp lánh vẻ đẹp riêng. Hoàn cảnh sống và chiến đấu nơi tuyến lửa đã gắn bó họ thành một khối đoàn kết, yêu thương, gan dạ và dũng cảm.
Họ đóng quân trong một cái hang giữa trọng điểm “túi bom, chảo lửa” trên tuyến đường Trường Sơn. Công việc hàng ngày của họ là đếm bom, rồi lao ra trọng điểm sau những trận bom để đo khối lượng đất đá cần phải san lấp, đánh dấu vị trí bom rơi và phá những quả bom chưa nổ. Một khối lượng công việc vừa đồ sộ vừa nguy hiểm. Cái chết rình rập họ từng phút, từng giờ. “Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang âm ỉ xa dần, thần kinh căng như chảo, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng chung quanh còn nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ…”. Họ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, dù chỉ có ba người (lại là ba phụ nữ); họ phân công nhau phá bằng hết những quả bom chưa nổ mà không cần đến sự trợ giúp của đơn vị “như mọi lần chúng tôi sẽ giải quyết hết”.
Trong chiến đấu họ gan dạ, dũng cảm, quyết đoán là thế, nhưng trong cuộc sống họ là những cô gái trẻ trung, yêu đời, dễ rung cảm, lắm ước mơ. Là phụ nữ, họ rất thích cái đẹp và thích làm đẹp cho cuộc sống.
Nếu như nhân vật Nho “mát mẻ như một que kem trắng”, thích ăn kẹo như một đứa trẻ, giàu mơ ước (Nho ước mơ trở thành công nhân nhà máy điện và trở thành cầu thủ bóng chuyền của nhà máy) thì nhân vật chị Thao lại dạn dày, từng trải trong cuộc sống; thích thêu thùa; thích làm đẹp “tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm” nhưng trong công việc thì “ai cũng gờm chị: cương quyết, táo bạo” (dũng cảm, táo bạo nhưng lại sợ nhìn thấy máu chảy).
Còn Phương Định, nhân vật chính của truyện là con người hồn nhiên, nhạy cảm, lãng mạn và mơ mộng. Là con gái Thủ đô, cô thường sống với kỷ niệm quê hương. Nơi ấy có một thời học sinh trong trắng, hồn nhiên, vô tư. Nơi ấy có mẹ, có căn gác nhỏ của cô… Những kỷ niệm yêu dấu ấy là liều thuốc tinh thần quý giá động viên cô, tiếp thêm sức mạnh để cô sống đẹp và chiến đấu anh dũng nơi tuyến lửa.
Ở chiến trường, Phương Định luôn dành cho đồng đội tình yêu thương thắm thiết. Cô yêu quý đồng đội trong “tổ trinh sát mặt đường” của cô và cảm phục các anh bộ đội “những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Trong mắt cô, đó là những “người đẹp nhất, thông minh nhất”. Phương Định rất nhạy cảm. Cô biết mình có “cái nhìn sao mà xa xăm” như lời các anh lái xe nhận xét nhưng cô lại không biểu lộ tình cảm và thích kín đáo giữa đám đông. Cô thích nhạc và mê ca hát. Thậm chí tự đặt lời theo một điệu nhạc nào đó và hát để thấy mình rất buồn cười v.v… Thế nhưng với Phương Định, sự nhạy cảm về tâm hồn có lẽ được biểu hiện tinh tế nhất ở chỗ, chỉ một cơn mưa đá bất ngờ vụt qua trên cao điểm, cũng đủ đánh thức trong cô những ký ức về quê hương, gia đình, khơi dậy trong cô khát khao sum họp đến cháy bỏng.
Một cô gái Hà Nội chính gốc, lãng mạn và mơ mộng như thế, nhưng trong chiến đấu lại dũng cảm, gan dạ đến tuyệt vời. Một mình phá bom trên đồi “quang cảnh vắng lặng đến dễ sợ” nhưng tinh thần cô không hề nao núng. Đáng lẽ cô phải “đi khom” nhưng sợ mấy anh chiến sĩ “có cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt” nhìn thấy, nên cô “cứ đàng hoàng mà bước tới”.
Khi ở bên quả bom, tử thần có thể cướp đi mạng sống của cô bất cứ lúc nào, nhưng cô vẫn bình tĩnh thao tác một cách chính xác và chạy đua với thời gian để vượt qua cái chết.
“Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Những cảm giác tinh tế ấy không chỉ là sự nhạy cảm mà còn là kinh nghiệm của sau bao nhiêu lần phá bom ở tuyến lửa và chỉ những người nữ thanh niên xung phong dạn dày như Phương Định, Nho, chị Thao mới có được!
Với tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”, ngòi bút của Lê Minh Khuê đã miêu tả sinh động, chân thực tâm lí nhân vật; làm hiện lên một thế giới nội tâm rất phong phú nhưng không phức tạp, rất đời thường, giản dị nhưng vô cùng trong sáng và cao thượng của những nữ thanh niên xung phong.
Vẻ đẹp của những “cô gái mở đường” Trường Sơn cùng với vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe trong các tác phẩm văn học chống Mỹ nói chung và trong các tác phẩm của Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê nói riêng đã giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về ý chí, tâm hồn và nhân cách của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Vẻ đẹp thế hệ trẻ qua Bài thơ tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 3
Không hiểu vì sao mỗi lần nghĩ đến đất nước và con người Việt Nam, mỗi chúng ta lại nghe vang vọng trong tâm chí những câu thơ của Huy Cận:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững,
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực, sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hoà.
Sảng khoái biết bao! Tự hào biết bao! Trong tâm trí ta bỗng cuồn cuộn đổ về dòng lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc. Bừng sáng trong tâm hồn ta bốn ngàn năm của cha ông với những chiến công dựng nước và giữ nước, với trời bể ân tình thuỷ chung, yêu thương đùm bọc nhau. Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.Ta nhớ Thao, Nho, Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê ; và những người lính lái xe dũng cảm trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật và “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là những tác phẩm xúc động, hào hùng về những người lính thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Các tác giả đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của những người lính trẻ, những con người ngày đêm ra tiền tuyến vì miền Nam ruột thịt. Con người hiện lên trong trang thơ, trang văn của Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê là một tập thể anh hùng đầy hiên ngang khí phách hào hùng, đã lắng nghe họ sống để ghi lại cái nhịp sống hào hùng, ghi lại vẻ đẹp tâm hồn, bản chất anh hùng của những con người giản dị, mộc mạc mà ngang tàng bất khuất.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là những dòng tâm sự đầy tình cảm về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa. Phạm Tiến Duật không chỉ tái hiện lại hình ảnh của những chiếc xe không kính mà còn khắc tạc hình ảnh của những người lính lái xe kiên cường, dũng cảm, ngang tàng với một đời sống tình cảm hết sức phong phú – tình đồng đội đồng chí. Phạm Tiến Duật đã khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc trên những chiếc xe đặc biệt:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Bình thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. Ấy thế mà tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt của bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này đã có tác dụng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm dành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa được vào thơ thì thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực (chiếc xe tam mã trong thơ của Puskin, con tàu trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận). Nay chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với văn xuôi, lại có giọng thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Những “bom giật, bom rung” làm vỡ kính xe. Bom đạn chiến tranh làm cho những chiếc xe ấy biến dạng. Bom đạn đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng: không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hình ảnh chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như của Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ. Không tô vẽ, không cường điệu và tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ. Hình tượng những chiếc “xe không kính” đã gợi lên những nguy hiểm cận kề. Sự hy sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gần những người lính.
Mục đích Phạm Tiến Duật miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh. Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía trước, thực hiện khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Vẻ đẹp kiêu hùng được toát ra từ tư thế ngồi “ung dung” đến cái nhìn “nhìn thẳng”. Các từ láy “ung dung” cùng với nhịp thơ nhanh, đều, dứt khoát diễn tả vẻ đẹp khoan thai, thản nhiên, tự tin của người chiến sĩ. Tư thế của họ ung dung, hiên ngang mới đàng hoàng làm sao. Con mắt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm, bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai chữ nhìn thẳng – nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dặn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
Còn hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê được khắc hoạ lên từ cuộc sống gian khổ nguy hiểm của họ. Bằng sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Lê Minh Khuê đã dựng lên bức chân dung người lính thanh niên xung phong vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại cả dân tộc kháng chiến chống Đế quốc Mĩ. Đó là bức chân dung được khắc tạc bằng cả tình yêu của Lê Minh Khuê đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Trong bức chân dung đó, Phương Định, cô nữ sinh Hà thành trở thành nữ thanh niên xung phong được tác giả thể hiện thật chân thực giữa chiến trường khốc liệt. Nhất là khi cô phá bom một mình. Ngày nào Định cũng phá bom nhiều lần, cô có nghĩ tới cái chết nhưng điều quan trọng hơn là “liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai ?”. Tâm trạng Phương Định khi phá bom được miêu tả cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác. Mỗi lần phá bom là mỗi lần tiếp xúc với công việc vô cùng nguy hiểm. Phương Định có cảm giác là “Các anh cao xạ” ở trên kia đang dõi theo từng động tác, cử chỉ của mình để rồi lòng dũng cảm ở cô như được kích thích bởi sự tự trọng: “Tôi đến gần quả bom… tôi sẽ không đi khom, các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới”… Cô không sợ nữa, không đi khom mà cứ đàng hoàng mà bước tới”. Đó là những ý nghĩ trong sáng, cao thượng. Đó là tư thế ngẩng cao đầu của cô gái bằng một tâm lý kiêu hãnh trước cái nhìn động viên tin tưởng của đồng đội. Khi ở bên quả bom, kề sát cái chết im lìm cảm giác căng thẳng của Định được miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết, từng cảm giác của con người cũng trở nên sắc nhọn hơn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom, một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi, tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Mỗi chữ, mỗi lời trong đoạn miêu tả ấy làm hiện lên đậm đặc, sắc sảo từng nét cảm giác của cô gái đang đối diện với cái chết. Không thể hiện sự gan dạ, dũng cảm trước hiểm nguy một cách thô cứng theo kiểu ngợi ca: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (Phạm Tiến Duật) hay “Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng” (Tố Hữu). Minh Khuê thể hiện những nét tâm lý tinh tế, chân thật làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn. Phải chăng chất mơ mộng của tâm hồn giữa khói lửa là chiều sâu của tinh thần gan dạ, dũng cảm.Đó là công việc hàng ngày đã quen của Định. Công việc hiểm nguy ấy khiến ba cô gái thanh niên xung phong trở nên thật phi thường, thật đáng khâm phục.
Trong đội ngũ điệp trùng ấy của thế hệ trẻ trên đường Trường Sơn thời đánh Mỹ, bên cạnh những người lính trẻ, hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong làm nên vẻ đẹp của thời đại toàn dân đánh Mỹ. Đã có biết bao cô gái để lại cả tuổi xuân của mình ở Trường Sơn, họ mãi mãi là những ngôi sao sáng, ánh sáng của tâm hồn ấy, tình yêu Tổ quốc ấy được Lâm Thị Mỹ Dạ ca ngợi:
Em đã lấy tình yêu Tổ Quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng quân thù hứng lấy luồng bom.
Cùng với đồng đội của mình, Phương Định là vẻ đẹp đầy tự hào của thế hệ trẻ thời chống Mĩ. Họ là những người có tâm hồn trong sáng, giàu mơ mộng, có tinh thần dũng cảm.
“Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là những tượng đài lộng lẫy về vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ thử thách mà rất đỗi anh hùng. Các tác phẩm đi vào những khía cạnh khác nhau của đời sống thời kì chống Mỹ, nhân vật hiện lên từ những khung cảnh, hoàn cảnh khác nhau và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, cá biệt nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biết động, “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật mãi là những bông hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày tháng, đã ghi lại cái quá khứ hào hùng, sôi động của đất nước mình một thuở. Và vẻ đẹp của con người Việt Nam đã làm nên cái hồn của cả dân tộc và góp phần làm cho tác phẩm sống mãi với thời gian.
Vẻ đẹp thế hệ trẻ qua Bài thơ tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 4
Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, tuyến đường Trường Sơn đầy bom rơi đạn nổ đã trở thành con đường huyền thoại. Bởi nơi đây đã có những câu chuyện thần kì với những anh bộ đội hiên ngang anh dũng, những anh chiến sĩ lái xe ngang tàn mà lẫm liệt mà nhà thơ Phạm Tiến Duật đã hơn một lần ca ngợi trong bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Câu chuyện thần kì đó còm là chuyện về những cô gái thanh niên xung phong vừa kiên cường dũng cảm trong chiến đấu vừa hồn nhiên, mơ mộng thật đáng yêu, đáng quý. Lấy cảm hứng từ đó, nhà văn Lê Minh Khuê đã sáng tác thành truyện ngắn đặc sắc “Những ngôi sao xa xôi”
Truyện được viết 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra ác liệt. Truyện Những ngôi sao xa xôi phản ánh chân thực tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong. Đó chính là những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa qua.
Điều ta cảm nhận đầu tiên là hoàn cảnh sống và chiến đấu của họ. Họ là một tổ trinh sát mặt đường gồm ba người, hai cô gái rất trẻ là Phương Định và Nho. Còn chị Thao là tổ trưởng thì lớn tuổi hơn một chút. Họ ở trong một cái hang dưới chân cao điểm. Ở đó, máy bay Mỹ thường hay đánh phá dữ dội. Đường bị đánh “lỡ loét, màu đất đỏ trắng lẫn lộn”. Sự sống ở đây gần như bị hủy diệt “hai bên đường không có lá xanh, chỉ có những thân cây bị tước khô cháy”… Công việc của họ lại càng đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch. Sau mỗi trận bom, họ phải lao ra trong điểm “đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đến bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Đó là công việc mạo hiểm luôn phải đối mặt với cái chết, “thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ở lẩn trong ruột những quả bom”.
Nhưng với ba cô gái này, thì những công việc ấy đã trở thành công việc hằng ngày. Cả ba cô gái cô nào cũng đáng mến, đáng phục. Nhưng Phương Định là cô gái để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Phương Định là cô gái nhạy cảm, hồn nhiên, mơ mộng, thường sống với những kỉ niệm về Hà Nội. Là một cô gái Hà Nội, cô có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư bên người mẹ trong những ngày thanh bình trước chiến tranh. Những kỉ niệm tuổi học trò luôn sống dậy trong lòng cô ngay giữa chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt. Cô vào chiến tranh ba năm. Đã quen với những thử thách và nguy hiểm, giáp mặt hằng ngày với cái chết, nhưng ở cô cũng như những đồng đội, không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng với những ước mơ về tương lai.
Cũng như các cô gái mới lớn, Phương Định hay quan tâm đến hình thức của mình. Cô đánh giá:”Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá…”. Đặc biệt cô có cặp mắt đẹp nên cô thích ngắm mắt mình trong gương. Cô biết mình được nhiều nhiều nhất là các anh lính để ý và có thiện cảm. điều đó làm cô tự hào nhưng chưa từng có tình cảm riêng với một ai cả. nhạy cảm, nhưng cô không hay biểu lộ tình cảm của mình, tỏ ra kín đáo trước đám đông, tưởng như là kiêu kì.
Cô có tính đồng đội sâu sắc, gắn bó. Cô yêu mến thân thiết với hai đồng đội trong tổ trinh sát. Cùng vui đùa ca hát, chia sẻ ngọt bùi, cùng chịu đựng nhiều nguy hiểm, bom đạn. Khi chị Thao vấp ngã cô đỡ chị. Khi chị Nho bị thương, cô “rửa cho Nho bằng nước đun sôi…”. Đặc biệt cô dành tình yêu thương và niềm cảm phục cho tất cả những người chiến sĩ của tôi những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người chiến sĩ mà hằng đêm cô gặp trên trọng điểm của con đường vào mặt trận.
Nhưng có lẽ điều đáng khâm phục nhất ở cô đó là lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm trong công việc. Phương Định cùng những người bạn của mình sống và chiến đấu trên một cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Cô phải chạy trên cao điểm đánh phá của máy bay địch. Sau mỗi trận bom, chị cùng đồng đội phải lao ra trọng điểm, đo và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá. Đó là công việc mạo hiểm với cái chết luôn gần kề tạo áp lực khiến thần kinh vô cùng căng thẳng. Thực hiện công việc đó, Phương Định và đồng đội phải vô cùng bình tĩnh và họ đã thực sự bình tĩnh, ung dung một cách lạ thường. Thậm chí, với họ, công việc ấy đã trở thành bình thường: ”Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng có nhiều quả bom chưa nổ, nhưng nhất định sẽ nổ… Rồi khi xong việc, quay lại nhìn đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang”.
Thế giới tâm hồn của Phương Định thật phong phú, trong sáng nhưng không phức tạp. Không thấy những băn khoăn, day dứt. trăn trở trong ý nghĩ và tình cảm của cô gái khi phải sống và chiến đấu trong hoàn cảnh đặc khốc liệt, hiểm nguy, mà vẫn tươi vui, hồn nhiên, lạc quan yêu đời.Truyện đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng , mơ mộng , tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Những năm tháng chống Mỹ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và những dấu ấn khó phai mờ. Hình ảnh những những cô gái thanh niên xung phong, anh bộ đội cụ Hồ là một trong những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất trong kháng chiến. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu cho nét tinh nghịch cũng như tinh thần bất khuất, hiên ngang hào hùng của người chiến sĩ.
Với phong cách thơ tự do phóng khoáng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Đây cũng là bài thơ nằm trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970, Mở đầu bài thơ là một hình ảnh hết sức cụ thể, chân thực và độc đáo:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá đã khiến cho người đọc hình dung được bức tranh ác liệt, tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì “bom giật bom rung” cho nên “kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh với những mưa bom bão đạn đã tàn phá những chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, méo mó khiến cho chúng trở nên khác thường. Kì dị và độc đáo chính là những tính từ miêu tả chính xác cho những chiếc xe như vậy. Và có thể thấy rằng, lời giải thích rất thật thà, đơn giản nhưng lại chứa đựng một hiện thực sâu sắc.
Không có kính, tưởng chừng như thiếu thốn, tưởng chừng như vất vả nhưng ở đây những chiến sĩ lái xe lại không hề bi quan. Họ biến hình ảnh chiếc xe không kính không bình thường thành cái bình thường và biến cái thiếu thốn, khó khăn thành điều thú vị. Chính vì thế mà người đọc bắt gặp ở đây những nét tinh nghịch và lạc quan của người lính:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng
Hai từ “ung dung” đảo lên đầu câu cho thấy tư thế hiên ngang, có thể làm chủ được tay lái, làm chủ được con đường phía trước của người lính lái xe. Không những thế, đại từ “ta” vừa là chỉ người lái xe, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình. Với tâm thế này, thì phía trước là trời đất bao la, rộng lớn hay phía trước là những khó khăn vất vả thì người chiến sĩ vẫn tự tin tiến về phía trước, quân dân ta vẫn hùng mạnh bước tới.
Nhìn đất nhìn trời, người lính lái xe còn:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Thật là điều vô lý nhưng lại rất hợp lý, bởi lẽ, xe không có kính, mọi cảnh vật rất tự nhiên và chân thực. Ngay cả gió cũng có thể “nhìn thấy”, Còn sao trời, cánh chim thì “như sa, như ùa vào buồng lại”. Từ “nhìn” cũng không chỉ đơn thuần là thị giác nữa mà đó còn cảm nhận, tình cảm. “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Có lẽ trong lòng người chiến sỹ đang có một ý chí quyết tâm cao độ nên mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía trước, vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.
Nếu đoạn thơ trên nói đến những hình ảnh đẹp thì đoạn thơ tiếp theo sau lại nói về những vất vả, thiếu thốn của người lính lái xe. Song, dù ở bất kì hoàn cảnh nào thì các anh vẫn luôn nở nụ cười lạc quan, hóm hỉnh đầy chất lính:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Gió bụi của hiện thực và cũng là những gian khổ, thử thách mà các chiến sĩ lái xe phải vượt qua trên suốt chặng đường ra mặt trận. Qua chặng đường đầy gió bụi, mái tóc xanh của các chàng trai có sự thay đổi đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Thế nhưng các anh vẫn rất lạc quan, yêu đời và hóm hỉnh: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Trời nắng thì bụi. Trời mưa thì ướt sũng “như ngoài trời”. “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái đâu có kính che chắn gì nữa. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mặc dù vượt hết khó khăn này lại tới khó khăn kia nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới lạc quan: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần đời của anh lính bộ đội cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các anh chẳng hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng không làm chùn bước, ý chí của người lính cách mạng. Và trong cuộc chiến tranh đầy gian lao, thử thách ấy, tình cảm đồng chí, đồng đội lại càng trở nên gắn bó và gần gũi với nhau hơn:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những chặng đường mà mình đã đi qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đã cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng chính là tinh thần của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian lao để tiến bước đi đến thành công. Những tình cảm ấy đã làm thành sức mạnh, giúp cho những người lính trở nên mạnh mẽ và lạc quan hơn. Chiến tranh vì thế cũng bớt thảm khốc, bớt ảm đạm hơn.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Một lần, sự tàn khốc của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nhắc đến thông qua những chi tiết như xe “không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước”. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc đến máy thì ý chí và sự nỗ lực vì miền Nam vẫn không ngừng nghỉ. Hình ảnh “trái tim” chính là một hình ảnh đẹp. Nó tượng trưng cho lý tưởng chiến thắng, thống nhất nước nhà. Những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ nhằm giúp sức cho miền Nam toàn thắng.
Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, hùng dũng và đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Và cái kết tinh đẹp nhất trong bài thơ ấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.
Vẻ đẹp thế hệ trẻ qua Bài thơ tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 5
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã có biết bao chàng trai, cô gái trẻ đã rời ghế nhà trường, xung phong vào những nơi chiến trường ác liệt nhất. Họ đã cống hiến cả tuổi xuân, cả xương và máu của mình cho Tổ quốc. Vẻ đẹp của thế hệ trẻ ấy đã được các nhà văn, nhà thơ cách mạng ghi lại bằng những tác phẩm đặc sắc của mình. Trong đó phải kể tới hai tác phẩm rất hay đã thể hiện vô cùng chân thực và sống động hình tượng của những người thanh niên trẻ trong chiến tranh, đó là truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của nhà văn Lê Minh Khuê và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính được nhà thơ Phạm Tiến Duật viết năm 1969, trong thời gian mà cuộc kháng chiến chống Mỹ đang vào hồi ác liệt nhất. Nếu như nhà văn Lê Minh Khuê viết về những người nữ thành niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn thì Phạm Tiến Duật lại đi sâu tìm hiểu cuộc sống và chiến đấu của những người lính lái xe cũng ở trên tuyến đường này. Những người lính lái xe ấy đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của những người lính bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Mỹ. Họ không chỉ trẻ trung với tinh thần ung dung, lạc quan, ngang tàng trước mọi khó khăn mà còn có một tình đồng đội thắm thiết, một lý tưởng mãnh liệt – chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Vẻ đẹp đầu tiên của những người lính lái xe đó là sự trẻ trung, sự lạc quan, ung dung trước mọi hoàn cảnh. Đọc những dòng thơ của Phạm Tiến Duật, ta thấy được những khó khăn, gian khổ, những thiếu thốn vật chất thiết yếu vô cùng mà người chiến sĩ phải trải qua:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Những chiếc xe tải chở quân lương, vũ khí hướng về miền Nam nhưng trên đường đi của họ, những trận bom đạn của kẻ thù dội xuống không ngớt khiến những chiếc xe ấy cứ dần mất đi những bộ phận trên xe. Đầu tiên là những chiếc kính bị “bom giật bom rung” đến vỡ tan rồi đến đèn xe, mui xe, thùng xe, … đều bị biến dạng, méo mó. Vậy nhưng những người lính ấy chẳng một lời than vãn. Xe không kính thì sao, họ vẫn “ung dung” ngồi trên buồng lái, thẳng tiến vào miền Nam thân yêu. Rồi đến những khắc nghiệt của thiên nhiên, thời tiết, những bụi đất mù mịt, những trận mưa rừng xối xả, … Sự khắc nghiệt ấy với họ chỉ là chuyện “nhỏ”, thậm chí họ còn biến nó thành tiếng cười vui, hân hoan:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc bạc như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”
Điệp từ “ừ thi” vang lên như một lời thách thức ngang tàng của người lính trẻ. Trong khó khăn, gian khổ vô cùng họ vẫn cùng nhau cất lên tiếng cười đầy lạc quan. Họ ung dung tiến về miền Nam phía trước, với một mục tiêu duy nhất – giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Vẻ đẹp thứ hai mà ta có thể thấy ở họ là tình đồng chí, đồng đội gắn bó thiết tha. Nếu như tình đồng chí trong bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu được gây dựng lên từ những điểm chung về xuất thân, từ những ngày họ cùng nhau trải qua gian khó, thì tình bạn, tình đồng chí của những người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật lại được dựng xây lên bằng những chiếc “bắt tay” vội vã “qua ô cửa kính vỡ rồi”, bằng những bữa cơm vội quây quần trên đường hành quân:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.
Với những người lính lái xe, những người đồng đội không chỉ là những người đồng chí, chung lý tưởng, với tình đồng đội mà họ đã coi nhau như gia đình của mình. Tình đồng chí đã gắn kết họ, biến họ trở thành những người thân của nhau, tình cảm ấy thật cao đẹp, thật sâu nặng biết mấy. Ở họ – những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn, ta còn thấy được một lý tưởng vô cùng cao đẹp, đó là lý tưởng giải phóng miền Nam để thống nhất non sông Việt Nam. Điều đó thể hiện trong lời thơ mà nhà thơ Phạm Tiến Duật viết:
“Lại đi lại đi trời xanh thêm”
Và:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Những người lính – họ chỉ là những người thanh niên mười tám đôi mươi, họ trẻ trung là thế, có biết bao hoài bão, mơ ước còn chưa thực hiện được. Vậy mà họ đã xung phong vào nơi chiến trường ác liệt này, chỉ vì trong tim họ có một lý tưởng, đó là giải phóng dân tộc Việt Nam ra khỏi ách nô lệ, đất nước Việt Nam được hòa bình. Câu thơ của Phạm Tiến Duật đã chứng minh cho lý tưởng cao đẹp ấy của họ. Họ “đi” “lại đi” bởi vì mơ ước được nhìn thấy màu xanh của hoà bình, được nhìn thấy miền Nam được hoàn toàn độc lập. Câu thơ cuối của bài thơ đã thâu tóm tất cả vẻ đẹp của lý tưởng những người chiến sĩ. Dù trong khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, nhưng trái tim nhiệt huyết với lý tưởng được cống hiến sẽ luôn là thứ giúp họ vượt qua tất cả mọi thử thách trên chặng đường đi lên.
Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” được nhà văn Lê Minh Khuê viết vào năm 1971, khi chiến tranh chống Mỹ đang vào giai đoạn khốc liệt nhất. Bà viết về những người nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa. Những cô gái mới chỉ vừa tròn mười bảy mười tám, vậy mà đã trở thành những người trinh sát mặt đường gan dạ, dũng cảm. Những cô gái trẻ ấy đã cho ta thấy được vẻ đẹp rạng ngời của thế hệ trẻ những năm tháng chống Mỹ cứu nước. Qua hình ảnh của Nho, của Thao, đặc biệt là Phương Định, ta có thể thấy rõ vẻ đẹp rạng ngời của thế trẻ Việt Nam.
Thao, Nho, Phương Định là ba cô gái thuộc “tổ trinh sát mặt đường” trên tuyến đường Trường Sơn. Nhiệm vụ của họ là “đo khối lượng đất lấp hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Hoàn cảnh sống và chiến đấu của ba cô gái cũng rất khắc nghiệt và khó khăn. Họ phải ở trong “một hang dưới chân cao điểm” và con đường phía trên cao điểm đó bị bom Mỹ đánh “lở loét” đến mức “màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy”… thế nhưng họ luôn giữ cho mình một tinh thần trách nhiệm cao với công việc dù rằng họ đối mặt với “thần chết” cả ngày. Chỉ cần vừa nghe thấy tiếng máy bay Mỹ “rè rè”, “phản lực gầm gào” là họ đã “lên dây cót” chuẩn bị tinh thần để phá bom, lấp hố bom, làm nhiệm vụ của mình. “Máy bay rít, bom nổ” là Thao – đội trưởng đã phân công ngay công việc cho các chị em của mình, rồi kéo tay Nho “vác xẻng lên vai và đi ra cửa”. Biết là khó khăn, biết là nguy hiểm nhưng họ hiểu công việc của mình quan trọng như thế nào. Bởi có họ thì những chiếc xe chở đạn dược, vũ khí mới có thể tiến vào miền Nam. Tinh thần trách nhiệm ấy còn được thể hiện rõ là ở nhân vật Phương Định. Phương Định ở trên cao điểm này đã ba năm. Ba năm đã tôi rèn một người con gái Hà Nội thành một chiến sĩ lấp đất, phá bom rất chuyên nghiệp và thành thục. Mỗi khi có nhiệm vụ, cô đều rất bình tĩnh, tự tin bởi cô “quen rồi”, có khi một ngày cô phải “phá bom đến năm lần”. Khi đối mặt với một quả bom to “nằm lạnh lùng ở một bụi cây khô”, Phương Định đã nhanh chóng tiếp cận, thực hiện những hành động mau lẹ để phá quả bom ấy một cách chính xác.
Vẻ đẹp thứ hai ta có thể thấy được ở những người nữ thanh niên xung phong đó là sự dũng cảm, gan dạ, bất chấp tất cả những khó khăn, nguy hiểm. Nhiệm vụ của ba cô gái là đo khối lượng đất, đếm bom, phá bom, chính vì vậy mà họ phải “chạy trên cao điểm cả ban ngày”. Họ biết sự nguy hiểm luôn rình rập bên cạnh mình, khi mà “thần chết” luôn “lẩn trong ruột những quả bom”, chỉ một phút sơ sẩy, ba cô gái có thể hy sinh. Thế nhưng họ đã vượt lên trên tất cả mọi thử thách, nguy hiểm đó để thực hiện nhiệm vụ của mình. Khi Phương Định nhận nhiệm vụ phá bom trên đồi, cô đã đi trong sự hiên ngang thẳng tiến tới quả bom, không hề “đi khom”, cũng không hề sợ hãi, “đàng hoàng mà bước tới” bên cạnh quả bom. Đọc tác phẩm, ta có thể thấy được nhiệm vụ của ba cô gái nguy hiểm tới mức nào, vậy nhưng Thao, Định hay Nho, ba cô gái ấy chẳng có chút nào sợ hãi. Họ luôn sẵn sàng cho nhiệm vụ của mình mỗi ngày, mỗi giờ!
Điều thứ ba ta thấy ở họ là một tinh thần đồng đội gắn bó, cao đẹp. Ba cô gái, ba tính cách khác biệt nhưng lại vô cùng quan tâm, yêu mến và thấu hiểu nhau. Với Thao, chị là người đội trưởng sắc sảo, “cương quyết, táo bạo”, thế nhưng Phương Định biết chị là người rất điệu “áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu. Chị hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm” và còn rất sợ máu và vắt. Phương Định còn biết Nho rất thích ăn kẹo nên lúc nào cô cũng phần mấy cái kẹo trong túi áo của mình cho Nho. Còn Thao lại biết Phương Định rất thích hát, thích nhớ về Hà Nội xa xôi. Ba con người, ba cô gái đến từ ba quê hương trên Tổ quốc Việt Nam nhưng họ đã gắn bó với nhau bằng tinh thần đồng đội sâu nặng, nghĩa tình.
Sống trong gian khổ, trong hiểm nguy rình rập thế nhưng những người nữ thanh niên xung phong ấy lúc nào cũng mang trong mình một tâm hồn tràn đầy thơ ngây, trong sáng và mơ mộng. Như Phương Định, cô thích hát vô cùng, hát mọi thể loại “dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng”, “Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô”, “dân ca Ý trữ tình, giàu có”, thậm chí cô còn “bịa ra lời mà hát”. Và khi ba cô gái ấy bắt gặp một cơn mưa đá giữa rừng Trường Sơn, họ đã “vui thích cuống cuồng”. Thao thì “hốt cái gì dưới đất. Chắc là đá”, Phương Định thì vui như “con trẻ” “say sưa, tràn đầy” còn Nho, mặc dù bị thương nhưng vẫn cố “nhổm dậy” mà đòi Phương Định cho những viên đá. Và rồi cơn mưa đá tạnh đi, những cô gái ấy “bỗng thẫn thờ, tiếc không nói nổi”. Dù ở nơi chiến tranh, khỏi lửa bom đạn mịt mù, đối mặt với nguy hiểm cận kề, ba cô gái vẫn luôn giữ cho mình nét trẻ trung, hồn nhiên, trong sáng và giàu cảm xúc như thế. Riêng Phương Định, cô luôn nhớ về Hà Nội, nhớ về mẹ của mình cùng những kỉ niệm “cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố”, “cái vòm tròn của nhà hát”, …
Vẻ đẹp của Nho, của Thao hay của Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi của nhà văn Lê Minh Khuê đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ từ 1955 đến 1975.
Tuy được viết bằng hai thể loại khác nhau nhưng hai tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của nhà văn Lê Minh Khuê và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đều có chung một điểm là đều được viết vào giai đoạn kháng chiến chống Mỹ đang vào hồi ác liệt nhất. Hơn thế, chúng đều viết về những người thanh niên trẻ trên tuyến đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Dù họ là những người nữ thanh niên xung phong hay là những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thì họ đều mang những vẻ đẹp đại diện cho thế hệ trẻ trong những năm tháng chống Mỹ để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của bọn đế quốc.
Thế nhưng, Những ngôi sao xa xôi và Bài thơ về tiểu đội xe không kính cũng có những khác biệt rất rõ rệt. Thứ nhất là về thể loại, trong khi Bài thơ về tiểu đội xe không kính được viết bằng thể thơ bảy chữ súc tích, với ngôn từ và giọng điệu gần gũi, tự nhiên, pha chút ngang tàng thì Những ngôi sao xa xôi của nhà văn Lê Minh Khuê lại viết bằng thể loại truyện ngắn với vai kể là nhân vật chính với cách kể chuyện tự nhiên, sinh động. Thứ hai, Những ngôi sao xa xôi kể về những người nữ thanh niên xung phong làm nhiệm vụ đo đất lấp đường, phá bom thì Phạm Tiến Duật lại viết về người lính lái xe làm nhiệm vụ chở đạn dược, vũ khí cho miền Nam ruột thịt.
Hai tác phẩm, hai đề tài, hai thể loại nhưng tựu chung lại, Bài thơ về tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi đã dựng lên trọn vẹn vẻ đẹp của những người thanh niên trẻ trung, lạc quan đang sống và chiến đấu trong sự ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Họ là biểu tượng cho sức trẻ, cho ý chí, cho tinh thần của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng gian lao mà hào hùng của dân tộc ta.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Phân tích vẻ đẹp thế hệ trẻ qua Bài thơ tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi Dàn ý & 5 bài văn mẫu hay nhất của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.