Tôi chỉ mua bảo hiểm sức khỏe (health insurance), chưa mua bảo hiểm nhân thọ (life insurance) bao giờ. Người bán bảo hiểm tiếng Anh gọi là “agent” (giống như từ “điệp viên” vậy đó).
Bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng (a contract) giữa công ty bảo hiểm (an insurance company) và chủ hợp đồng bảo hiểm, tiếng Anh gọi là “policyholder” (danh từ ghép, viết liền). Thường thì “policyholder” là người được bảo hiểm, nhưng đôi khi thì có thể có nhiều hơn một người được bảo hiểm trong hợp đồng. Người được bảo hiểm gọi là “insured person”.
Trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ có ai đó được nhận tiền từ hợp đồng bảo hiểm, người này gọi là “beneficiary” (người thụ hưởng).
Phí bảo hiểm tiếng Anh là “premium” (trọng âm rơi vào âm tiết đầu) và giá trị bảo hiểm – số tiền người thụ hưởng nhận được nếu rủi ro xảy ra – gọi là “face value”.
Khi hợp đồng đáo hạn, nếu không có rủi ro xảy ra thì người nộp bảo hiểm nhân thọ có thể nhận lại một số tiền nhất định. Số tiền này về bản chất là phí bảo hiểm trừ đi chi phí quản lý và chi phí bảo hiểm (ví dụ phí bảo hiểm sức khỏe được đưa vào hợp đồng bảo hiểm nhân thọ) – được gọi là “cash value”.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường kéo dài, có thể lên tới 20 hoặc 30 năm, và người nộp bảo hiểm có thể thay đổi ý định trong thời gian đó. Họ có thể yêu cầu ngừng đóng bảo hiểm để thu về một số tiền (nhỏ) nào đó. Số tiền đó, nếu có, gọi là “surrender value”.
Quang Nguyen
Nguồn Bài Viết: https://vnexpress.net/noi-ve-bao-hiem-trong-tieng-anh-4592907.html