Xem đề thi
Đáp án chính thức các môn thi của Sở Giáo dục và Đào tạo
Sau đây là gợi ý đáp án môn Văn thi lớp 10 ở TP HCM do nhóm giáo viên HOCMAI thực hiện:
Câu 1:
a. Hai lợi ích của việc để những nghĩ suy cất lên thành lời là:
+ Mang đến sự chia sẻ cảm thông;
+ Tạo thành mối dây liên kết giữa người với người.
b. Thành phần biệt lập trong đoạn thơ của Lưu Quang Vũ:
+ Thành phần biệt lập gọi đáp “Mẹ ơi“.
c. Từ nội dung đoạn trích trong cuốn Nhật kí của bác sĩ Đặng Thùy Trâm, học sinh rút ra được những hiểu biết về tuổi trẻ Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh.
+ Đó là những chàng trai, cô gái sẵn sàng rời ghế nhà trường đi theo tiếng gọi thiêng liêng để bảo vệ Tổ quốc. Họ tự nguyện vào chiến trường, đối mặt với bao hiểm nguy để sống hết mình với lí tưởng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
+ Đó là thế hệ trẻ đã chứng kiến, thấu hiểu và biết ơn sự hi sinh của những người đi trước để từ đó họ có thêm động lực tiếp tục hành trình bảo vệ Tổ quốc.
+ Đó cũng là tuổi trẻ kiên cường, gan dạ, bản lĩnh của họ được tôi luyện, rèn giũa từ khói lửa chiến tranh và từ lòng căm thù giặc sâu sắc.
d. Với những góc nhìn khác nhau, thí sinh đưa ra quan điểm cá nhân của mình về cách suy nghĩ của triết gia nhỏ xinh Bao Nakashima: Tớ không trở thành ai khác/ Không ai khác có thể trở thành tớ. Thí sinh cần lập luận để chỉ ra lí do mình thích hay không thích.
Một vài gợi ý:
– Em rất thích cách suy nghĩ của triết gia nhỏ xinh Bao Nakashima: “Tớ không trở thành ai khác/ Không ai khác có thể trở thành tớ”. Bởi vì:
+ Chia sẻ của Bao Nakashima đã khẳng định những giá trị riêng biệt của bản thân mỗi người. Mỗi người sinh ra là một cá thể riêng biệt, độc đáo và duy nhất, không lẫn với bất kỳ ai.
+ Vì chúng ta là cá thể độc đáo, riêng biệt nên ta cũng không cần lặp lại, bắt chước hay trở thành bản sao của bất kì ai. Ta cần giữ được bản sắc của riêng mình trong suốt hành trình khôn lớn và trưởng thành.
→ Chính nhờ sự khác nhau này đã tạo nên tính đa dạng cho cuộc sống, sự muôn màu cho xã hội. Xã hội phát triển là nhờ vào những giá trị riêng biệt của cá nhân tạo thành.
Câu 2:
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận;
Có đầy đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài: Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; rút ra bài học nhận thức và hành động.
Vấn đề nghị luận: “Nếu những suy nghĩ tốt đẹp không được cất lên thành lời…”
* Giải thích:
– Giải thích ý thơ: Cuộc sống có những biến cố và khi chúng ta vấp ngã sẽ nhận được sự giúp đỡ của những người xung quanh.
– Vấn đề cần bàn luận: Nếu những suy nghĩ tốt đẹp không được cất lên thành lời thì sẽ tạo nên sự nuối tiếc, còn ngược lại, nó sẽ là nền tảng cho tình yêu thương, sự gắn kết giữa người với người.
* Bàn luận:
– Những suy nghĩ tốt đẹp không chỉ là những lời cảm ơn chân thành dành cho hành động giúp đỡ của người khác với mình mà đó còn là việc mình lan tỏa sự giúp đỡ đó cho những người xung quanh.
– Nếu những suy nghĩ tốt đẹp không được cất lên thành lời thì những tình cảm tốt đẹp sẽ không được thể hiện và lan tỏa, cuộc sống sẽ bớt đi những sắc màu tươi sáng, tâm hồn ta sẽ nặng trĩu những nuối tiếc.
– Làm thế nào để những suy nghĩ tốt đẹp khi cất lên thành lời? Phải cất lời cảm ơn kịp thời, đúng thời điểm để người giúp đỡ, hỗ trợ ta cảm nhận được thành ý của ta. Những suy nghĩ tốt đẹp cũng cần xuất phát từ tình cảm chân thành vì như vậy những điều tích cực đẹp đẽ mới được lan truyền rộng rãi.
* Dẫn chứng:
– Lời cảm ơn sau khi nhận được sự giúp đỡ từ những người xung quanh mình: bác bảo vệ, cô bán nước, người bạn…
– Hoạt động tri ân, tưởng niệm những anh hùng liệt sĩ, những người công với đất nước, dân tộc…
– Lắng nghe những ý tưởng khởi nghiệp và sẵn sàng ủng hộ khi thấy phù hợp: đổi giấy, quần áo cũ lấy cây xanh; túi làm từ các vật liệu tái chế…
* Mở rộng vấn đề:
– Bày tỏ thái độ không đồng tình với những quan niệm, hành động sai lầm: những người ích kỉ, vô cảm, không biết sẻ chia và cảm thông; không biết nói lời cảm ơn;…
* Bài học và nhận thức:
– Hiểu được vai trò, giá trị của việc sẻ chia những điều tốt đẹp, tích cực trong cuộc sống.
– Lan truyền những tấm gương người tốt, việc tốt tới những người xung quanh để rút ra được bài học đúng đắn trong cách hành động và ứng xử.
– Nên bày tỏ, bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc chân thành để mọi người cảm nhận được những điều tốt đẹp mình muốn lan tỏa.
c. Sáng tạo Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Câu 3:
Đề 1: Em hãy viết bài văn nghị luận về một khổ thơ hoặc đoạn thơ khiến em nghĩ suy về tình yêu nước của con người Việt Nam và muốn cất lên những lời ngợi ca tình yêu ấy. Từ đó cho biết tác động của khổ thơ hoặc đoạn thơ đó đối với em.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận;
Có đầy đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài: Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Triển khai vấn đề:
Thí sinh lựa chọn một khổ thơ hoặc một đoạn thơ tiêu biểu về tình yêu nước của con người Việt Nam và phân tích.
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
1. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm:
– Tác giả: Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ chống Mĩ cứu nước. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến trong hình tượng lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
– Khổ thơ trích trong bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, bài thơ được viết năm 1969, thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt trên con đường chiến lược Trường Sơn.
+ Xuất xứ: bài thơ được in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”.
+ Khái quát: khắc họa một hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường
Sơn trong thời chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
2. Phân tích khổ thơ
– Khổ thơ tạo nên kết cấu đối lập, bất ngờ sâu sắc: đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, giữa vẻ bên ngoài và bên trong của chiếc xe. Trải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe ban đầu đã không có kính, bị bom Mĩ làm cho biến dạng đến trần trụi.
a. Hai câu thơ đầu: Hiện thực tàn khốc của chiến tranh
– Biện pháp liệt kê những điểm không hoàn thiện của chiếc xe: không có kính, rồi xe không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước.
– Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần.
→ Vừa nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi của những chiếc xe, vừa thể hiện sự ác liệt, tàn khốc của chiến trường.
b. Hai câu thơ sau: Ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:
– Nhưng không có gì có thể cản trở được sự chuyển động kì diệu của những chiếc xe trơ trụi ấy, những chiếc xe không có kính vẫn băng băng ra chiến trường.
– Tác giả lí giải bất ngờ và lí trí: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
+ Hình ảnh hoán dụ: lấy hình ảnh trái tim để chỉ người lính.
+ Đối lập với tất cả những cái “không có” ở trên là một cái “có”. Một bên là hiện thực khốc liệt, một bên là sức mạnh ý chí, tình yêu nước, niềm tin, niềm hi vọng vào thắng lợi.
+ Đó không chỉ là sự ngoan cường, dũng cảm vượt lên trên mọi gian khổ ác liệt mà còn là sức mạnh của tình yêu nước.
→ Trái tim trở thành hình ảnh trung tâm của cả bài thơ và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
* Tiểu kết về nội dung và nghệ thuật.
3. Liên hệ bản thân
– Trái tim người lính tỏa sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ mai sau, khiến ta không quên một thế hệ thanh niên thời kì chống Mĩ oanh liệt của dân tộc.
– Khơi dậy tinh thần yêu nước và lòng biết ơn trong mỗi con người Việt Nam. Đó cũng là động lực để chúng ta biết sống cống hiến, sống có trách nhiệm với gia đình, quê hương, đất nước.
– Biểu hiện: thể hiện bằng hành động cụ thể (nỗ lực học tập, rèn luyện để trở thành con người đủ sức, đủ tài; lao động tích cực; dũng cảm đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu;…).
4. Tổng kết
– Khái quát lại tinh thần yêu nước được thể hiện trong khổ thơ.
– Khẳng định và kêu gọi lòng yêu nước của mỗi công dân Việt Nam.
c. Sáng tạo
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Đề 2: Câu lạc bộ Lớn lên cùng sách
THÔNG BÁO:
Chủ đề sinh hoạt tháng 6: Trò chuyện cùng sách
Các bạn hãy gửi bài viết về Câu lạc bộ theo yêu cầu sau:
– Chọn một tác phẩm hoặc đoạn trích viết về đề tài tình cảm gia đình.
– Viết bài văn nghị luận trình bày những suy nghĩ của bạn về tình cảm gia đình trong tác phẩm hoặc đoạn trích ấy. Qua đó chia sẻ đôi điều về cách bạn trò chuyện và thấu hiểu (cách đọc) tác phẩm hoặc đoạn trích mà bạn chọn.
– Hạn cuối nộp bài: 10 giờ 00 phút, ngày 06/6/2023.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận;
Có đầy đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài: Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận; triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Triển khai vấn đề:
1. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm
– Tác giả: Nguyễn Quang Sáng (1932 – 2014), quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Các sáng tác của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
– Tác phẩm: truyện ngắn Chiếc lược ngà
+ Hoàn cảnh sáng tác: được viết năm 1966 (khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ) và được đưa vào tập truyện cùng tên.
+ Khái quát: tình huống truyện bất ngờ mà hợp tự nhiên, đoạn trích đã thể hiện tình cha con sâu đậm và cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
2. Cảm nhận về tình cha con trong văn bản Chiếc lược ngà
a. Tình cảm ông Sáu: tình cha ấm áp, sâu đậm
– Khi chia tay, ông Sáu rất lưu luyến, muốn “ôm con, hôn con” nhưng sợ con “giãy lên”, “bỏ chạy” nên ông đành đứng nhìn.
– Khi bé Thu nhận cha, ông Sáu “không ghìm được xúc động”, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt. Chi tiết giọt nước mắt là một chi tiết tiêu biểu:
+ Đây là giọt nước mắt hạnh phúc của người cha, của những nỗi đau được xoa dịu, giống như một phép màu hàn gắn những vết thương lòng bấy lâu nay. Bởi người cha ấy không mong chờ gì hơn ngoài việc được con yêu thương, được nghe tiếng gọi “Ba…” xé lòng từ bé Thu.
+ Bên cạnh đó, giọt nước mắt ấy hé lộ phần tâm hồn giàu yêu thương của ông Sáu. Tuy trải qua những hiểm nguy mất mát nơi chiến trường (hai cuộc chiến) nhưng người lính cứng cỏi ấy đã không thể kìm được giọt nước mắt hạnh phúc trước những người yêu thương.
– Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”, “Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu
nhớ tặng Thu con của ba”. Chiếc lược ngà là một vật quý giá, thiêng liêng với ông Sáu, nó làm dịu đi nỗi nhớ con và chứa đựng tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của người cha với đứa con xa cách.
→ Cây lược ngà là kết tinh cho tình phụ tử: mộc mạc mà đằm thắm, đơn sơ mà kì diệu.
b. Tình cảm bé Thu: tình con trong sáng, mãnh liệt
– Trong giờ phút chia tay, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Đôi mắt ấy vừa gợi ra nỗi niềm man mác, thăm thẳm, bâng khuâng khó nói; vừa bộc lộ nỗi niềm ân hận của Thu vì những hành động chưa đúng với ba. Không chỉ vậy, đôi mắt còn ẩn chứa sự cô đơn, lạc lõng khi không ai chú ý đến nó trong giờ phút chia li và sự đớn đau, xót xa vì ngay tại giờ phút này nó sắp phải chia xa người ba yêu dấu của mình.
→ Tất cả nỗi niềm ẩn giấu nơi đôi mắt của bé Thu chính là những biểu hiện sống động cho tình cha con sâu đậm.
– Khi Thu “thét lên”: “Ba…a…a…ba!”, đây chính là lúc tình cha con trỗi dậy, sáng rực. Tiếng gọi “ba” ấy thật thiết tha, cảm động bởi đó là tiếng “ba” mà Thu “cố đè nén trong bao nhiêu năm nay”, tiếng gọi “ba” thân thương mà trong suốt quãng đời ấu thơ của nó chưa từng cất lên. Tiếng gọi ấy còn ẩn chứa sự bùi ngùi, xót xa bởi tình yêu của Thu dành cho ba của mình lớn biết bao, vậy mà số phận trớ trêu khiến nó tàn nhẫn với ba, coi ba như người lạ và đến tận lúc chia xa, nó mới nhận ra ba nó.
– Hành động “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của bá nó” như một lời xin lỗi, như một cách bày tỏ tình yêu thương vô bờ, sự kính trọng dành cho ba.
*Tiểu kết về tình cha con ông Sáu trong văn bản Chiếc lược ngà.
3. Liên hệ với bản thân
– Xác định vấn đề: cách bạn trò chuyện và thấu hiểu về tác phẩm Chiếc lược ngà.
– Chia sẻ cách đọc của bản thân về tác phẩm Chiếc lược ngà:
+ Đầu tiên, đọc và cảm nhận tình cảm cha con ông Sáu được thể hiện qua tác phẩm (qua tình huống truyện, cách xây dựng nhân vật, lựa chọn ngôi kể,…)
+ Tiếp theo, tìm hiểu về hoàn cảnh sáng tác, liên hệ với hoàn cảnh thực của đất nước: Chiếc lược ngà viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, nhiều gia đình bị chia cách, li tán lúc bây giờ (qua bối cảnh).
+ Cuối cùng, đặt tình phụ tử đó vào hoàn cảnh chia li trong chiến tranh để thấu hiểu sự sâu sắc, thiêng liêng của tình cảm này, đồng thời thấy được sự tàn khốc, ác liệt của chiến tranh.
+ Từ nội dung tác phẩm, liên hệ và nhìn nhận về cuộc sống xung quanh, về tình cha con, tình cảm gia đình và tình yêu đất nước; lòng biết ơn dành cho sự hi sinh của những thế hệ đi trước trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc.
c. Sáng tạo
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Chiều nay, thí sinh tiếp tục dự thi môn Ngoại ngữ, thời gian làm bài 90 phút. Ngày 7/6, thí sinh làm bài thi môn Toán với 120 phút và môn chuyên 150 phút (thí sinh dự thi lớp chuyên).
Điểm thi lớp 10 ở TP HCM được công bố vào ngày 20/6.
Năm nay, TP HCM có gần 114.000 học sinh tốt nghiệp THCS, trong đó 96.300 em đăng ký dự thi lớp 10 công lập. Tổng chỉ tiêu của 108 trường THPT công lập của thành phố là 77.300, tỷ lệ trúng tuyển khoảng 80%.
Lệ Nguyễn
Nguồn Bài Viết: https://vnexpress.net/goi-y-dap-an-mon-van-thi-lop-10-o-tp-hcm-4613903.html