Tức cảnh Pác Pó thể hiện tinh thần lạc quan cũng như phong thái ung dung trong khó khăn của Bác Hồ, từ đó chúng ta có thể thấy hình ảnh của Bác vô cùng giản dị.
Bài văn mẫu lớp 8: Phân tích hình ảnh Bác Hồ trong Tức cảnh Pác Pó, đây là tài liệu được chúng tôi sưu tầm và đăng tải tại Pgdphurieng.edu.vn. Tài liệu là những bài văn mẫu phân tích hình ảnh Bác Hồ trong Tức cảnh Pác Pó, mời các bạn cùng tham khảo.
Phân tích hình ảnh Bác Hồ trong Tức cảnh Pác Pó – Mẫu 1
Nhắc đến Bác Hồ là nhắc đến người lãnh đạo thiên tài của Cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Nhưng nhắc đến Bác, còn là nhắc đến một lối sống thanh bạch, khiêm nhường, suốt đời chỉ chăm lo đến sự nghiệp cách mạng của đất nước. Điều đó được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.
Bài thơ ra đời năm 1942, một thời gian ngắn sau khi Bác Hồ về nước. Trở lại Tổ quốc sau hơn ba mươi năm bôn ba, lặn lội, Bác Hồ ở trong một hang nhỏ tại Pác Bó, Cao Bằng. Khung cảnh thiên nhiên và đời sống sinh hoạt nơi đây đã khiến Người “tức cảnh sinh tình” và viết nên bài thơ này.
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Trong ba câu đầu của bài thơ, Bác nhắc đến điều kiện ở – ăn – làm việc của mình, ở và ăn là hai nhu cầu tất yếu của con người. Và riêng với Hồ Chí Minh, khi nói đến đời sống sinh hoạt của mình, Người luôn đề cập thêm vấn đề công việc. Ấy bởi Bác là người luôn luôn làm việc, suốt đời làm việc, suốt đời lo cho dân, cho nước. Với Hồ Chí Minh, làm việc như một nhu cầu tất yếu, một bản năng. Điều đó cho thấy tấm lòng dành cho dân, cho nước của Bác vĩ đại nhường nào!
Nơi thâm sơn cùng cốc ấy, Người ở – ăn – làm việc như thế nào?
“Sáng ra bờ suối tối vào hang”, câu thơ cho biết không gian sống của Bác là không gian núi rừng hoang sơ, dân dã: suối, hang. Không phải là tòa biệt thự đồ sộ, không phải là giường ấm, đệm êm dù Bác đang là một yếu nhân của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, gian lao của đất nước, Người sẵn sàng sẻ chia thiếu thốn. Câu thơ có sự đối xứng nhịp nhàng: “sáng” – “tối”, “suối” – “hang”, “ra” – “vào”. Không gian và thời gian khép lại câu thơ đầy bóng tối: “tối”, “vào”, “hang”. Điều đó đã nhấn mạnh những gian khổ trong điều kiện ở của Bác. Chẳng những vậy, điều kiện ăn uống của Bác cũng rất hạn chế: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. “Cháo bẹ” là cháo ngô, loại thức ăn đạm bạc thường ngày của đồng bào dân tộc Việt Bắc. “Rau măng” cũng vậy. Nhà thơ Phạm Tiến Duật từng viết “Hết rau rồi em có lấy măng không?”, nghĩa là măng còn đạm bạc hơn cả rau rừng (vốn đã bị coi là đạm bạc rồi!). Nhưng dẫu thiếu thôn, gian khổ đến vậy, Người “vẫn sẵn sàng” cho công việc cách mạng, phục vụ cho lợi ích của nước, của dân.
Và điều kiện làm việc của Người cũng không tránh khỏi những thiếu thốn “bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”. Từ “chông chênh” là từ láy chỉ tư thế không vững chãi, ở vị trí bấp bênh. Hình ảnh “bàn đá chông chênh’ vừa gợi sự gian khổ của điều kiện làm việc vừa gợi tình thế gian nan của sự nghiệp cách mạng nước nhà. Hình ảnh Bác Hồ đăm chiêu làm việc bên một ‘bàn đá chông chênh” gợi bao niềm cảm động trong lòng độc giả. Nhưng Bác không để cảm hứng bài thơ xuôi theo cảm xúc ủy mị, yếu ớt của sự thiếu thốn, gian khổ. Câu thơ hợp của bài tứ tuyệt thật độc đáo:
“Cuộc đời cách mạng thật là sang!”
“Cuộc đời cách mạng” chính là cuộc sống với cái ở, cái ăn và sự làm việc như ba câu thơ trên. Bác dùng từ “thật là” mượn của khẩu ngữ rất tự nhiên, nó thể hiện sự cảm thán của người viết. Và chữ kết lại bài thơ thật bất ngờ: “thật là sang!”. Chữ “sang” mang ý nghĩa là sang trọng, đầy đủ. Chữ “sang” làm bật lên tiếng cười vui vẻ, niềm lạc quan trước cuộc sống gian khổ, thiếu thốn. Chính tinh thần ấy đã trở thành động lực để Bác cùng những người đồng chí vượt qua sự ngặt nghèo của đời sống và tình thế cách mạng để làm việc và chiến đấu. Chỉ một chữ mà khắc họa chân dung tinh thần của một con người. Chữ “sang” xứng đáng là “nhãn tự” của bài thơ tứ tuyệt “Tức cảnh Pác Pó”.
“Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần lạc quan của Bác Hồ trong những năm tháng khó khăn của đời sống cách mạng. Dù những điều kiện sinh hoạt vô cùng hạn chế song bằng tinh thần làm việc hăng say và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của dân lộc, Bác vẫn lạc quan mỉm cười để lấy đó làm động lực hoạt đông. Bài thơ sử dụng một thể thơ cổ (thất ngôn tứ tuyệt) song ngôn ngữ rất giản dị, gần gũi, thậm chí có cả khẩu ngữ. Điều đó thể hiện tinh thần dân tộc trong ngòi bút thơ ca Hồ Chí Minh. Bài thơ cũng rất tinh tế trong việc lựa chọn trật tự từ, sử dụng từ ngữ… điều đó góp phần không nhỏ trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm.
Phân tích hình ảnh Bác Hồ trong Tức cảnh Pác Pó – Mẫu 2
Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu, nhà cách mạng, nhà văn hóa, nhà văn, nhà thơ vĩ đại của của dân tộc Việt Nam; Người cống hiến cả cuộc đời của mình cho quê hương đất nước, vị lãnh tụ đáng kính, nhưng một đời sống bần hàn, thanh bạch. Cốt cách của Người, không phải tìm ở đâu xa, mà được thể hiện ngay trong những bài thơ do Bác sáng tác. Trong thơ mình, Bác vừa là một thi sĩ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng nhưng cũng là một chiến sĩ có tinh thần thép, đầy ung dung và lạc quan. Tức cảnh Pác Bó là bài thơ thể hiện rõ điều đó.
Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu tìm đường cứu nước, tháng 2 – 1941, Nguyễn Ái Quốc đã bí mật trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người sống trong hang Pác Bó – một hang núi nhỏ sát biên giới Việt – Trung (Thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng). Điều kiện sinh hoạt ở đây rất gian khổ. Phải thường ăn cháo ngô, măng rừng thay cơm; bàn làm việc là một phiến đá bên bờ suối Lê-nin. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy.
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ tứ tuyệt bình dị, tự nhiên:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Ba câu thơ đầu, Bác nhắc đến điều kiện ăn – ở – làm việc của mình. Vậy nơi thâm sơn cùng cốc ấy, Người ăn – ở và làm việc thế nào?
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”, câu thơ đầu tiên của bài thơ cho ta biết được không gian sống của Bác Hồ, đó là không gian núi rừng hoang sơ, dân dã, có suối và hang. Không phải là một ngôi nhà, hay một căn biệt thự xa hoa – lộng lẫy. Câu thơ ngắt nhịp 4/3, tạo thành hai vế sóng đôi và đặc biệt có sự đối xứng nhịp nhàng: “sáng” – “tối”, “suối” – “hang”, “ra” – “vào” toát lên cảm giác về sự nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào. Hơn nữa, giọng điệu của câu câu cũng thật thoải mái, phơi phới, cho thấy Bác Hồ sống thật ung dung, hòa điệu nhịp nhàng với nhịp sống núi rừng. Và điều đó cũng chứng tỏ rằng, Người sống rất giao hòa, giao cảm với thiên nhiên, gắn bó và yêu thiên nhiên sâu sắc.
Tình yêu thiên nhiên của Người được thể hiện trong nhiều bài thơ, ví dụ trong bài Ngắm trăng, Bác viết:
“Trong tù không rượi cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;”
Mặc dù ở trong ngục tù gian khổ, nhưng người vẫn không quên hướng ra ngoài kia, để thưởng trăng và khao khát cuộc thưởng trăng đủ đầy với rượi và hoa.
Câu thơ thứ hai vẫn tiếp tục mạch cảm xúc đó, nhưng có thêm nét vui đùa: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. Lương thực, thực phẩm ở đây thật đầy đủ, đầy đủ tới mức dư thừa, luôn có sẵn. Có người hiểu ý câu thơ này là dù phải ăn cháo bẹ, rau măng rất khổ nhưng tinh thần vẫn sẵn sàng. Hiểu như vậy không sai về ngữ pháp nhưng không phù hợp với tinh thần chung, giọng điệu chung (đùa vui, thoải mái) của bài thơ, cũng tức là không phù hợp với mạch cảm xúc của tác giả.
Ở hang Pác Pó điều kiện sống rất khó khăn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài viết Từ Pác Bó đến Tân Trào có kể lại: “Những khi trời mưa to, rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng, Bác thức dậy thấy một con rắn rất lớn nằm khoanh tròn ngay cạnh Người (…) Bác sốt rét luôn. Thức ăn cũng rất thiếu. Có thời gian, cơ quan chuyển vào vùng núi đá trên khu đồng bào Mán Trắng, gạo cũng không có, Bác cũng như anh em khác phải ăn cháo bẹ hàng tháng”. Mặc dù bữa ăn chỉ có cháo bẹ, rau măng làm bạn nhưng qua giọng điệu vui đùa, hóm hỉnh toát lên một tinh thần lạc quan, ung dung, tự tại. Dù cho có khó khăn đến đâu thì người chiến sĩ cách mạng vẫn không sờn lòng, nản chí. Vẫn một tư thế cống hiến hết mình vì dân tộc, vì đất nước.
Phân tích hình ảnh Bác Hồ trong Tức cảnh Pác Pó – Mẫu 3
Bác Hồ sáng tác bài thơ Tức cảnh Pác Bó khi người sống và làm việc tại hang Pác Bó ở tỉnh Cao Bằng trong thời gian đầu mới trở về nước xây dựng lực lượng cách mạng. Bài thơ diễn tả niềm vui thú chân thực của nhà thơ trong những ngày gian khổ ở Pác Bó. Qua đó làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Bác: vừa là một chiến sĩ say mê cách mạng vừa như một ẩn sĩ ung dung, tự tại, sống hòa mình với thiên nhiên rộng lớn.
Đó là niềm vui sống toát lên phong thái ung dung, tự tại giữa núi rừng. Câu thơ đầu có giọng điệu thật thoải mái, thanh thản hòa nhập với nhịp điệu của thời gian:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Câu thơ là hai vế sóng đôi, thể hiện nếp sông nhịp nhàng, nề nếp bất chấp hoàn cảnh gian khó thể nào. Ở đó, Bác có lối sống của một ẩn sĩ thanh tao, lấy núi, mây, chim, cảnh làm bầu bạn. Thế nhưng, như Phạm Văn Đồng đã từng nói đó không phải cách sống của một vị hiền triết yếm thế, dù ở nơi giản dị nhưng tâm hồn của Người luôn lộng gió thời đại.
Nếu câu một miêu tả nới ở, thì đến câu thứ hai lại miêu tả cuộc sóng sinh hoạt có pha giọng đùa vui:
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Tuy gian khổ, nhưng lúc nào, Bác cũng nhìn cuộc sống với niềm tin tưởng lớn. Lương thực, thực phẩm được rừng núi ban tặng đầy đủ đến mức dư thừa (vẫn sẵn sàng: lúc nào cũng sẵn có). Rõ ràng niềm vui thích “thú lâm tuyền” đã khiến nhà thơ biến thiếu thốn thành dư thừa, biến kham khổ thành sang trọng.
Niềm lạc quan toát lên cái “sang” của cuộc đời cách mạng. Câu thơ thứ ba cũng chẳng có gì cầu kì, đó hoàn toàn tả thực:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Núi rừng cho Bác rau măng để ăn, lại sẵn có cho Người nào bàn, nào ghế đá làm việc. Nhưng câu thơ cũng lại rất “sang”, nó làm nổi bật lên hình tượng người lãnh tụ cách mạng. Người dịch sử Đảng để giảng dạy, đào tạo cán bộ cách mạng cho phong trào. “Bàn đá chông chênh”, ba thanh bằng nhẹ nhõm, đối sánh với dịch sử Đảng toàn thanh trắc làm nên giọng thơ khỏe chắc, gân guốc: cái bàn chông chênh nhưng lại chắc chắn.
Câu thơ vừa thực vừa lớn lao và cổ kính như tứ tuyệt cổ điển. Thơ tứ tuyệt của Bác thường khắc họa nhân vật trữ tình: đó là nhà thơ. Ở câu thơ thứ ba, để tạo dà chuyển sang câu kết trực tiếp bộc lộ cảm xúc. Đó là một kết cấu hợp lí.
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Chỉ một chữ “sang’’ được nhấn mạnh bởi từ cảm thán “thật là” đổi lập với con suối, cái hang, cháo bẹ, rau măng, bàn đá chông chênh, tác giả làm tăng sự khẳng định dứt khoát cuộc sống này hơn hẳn các cuộc sống khác trên đời. Bởi vì đó là cuộc đời cách mạng, là niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại sau ba mươi năm xa. nước nay được sông giữa lòng đất nước yêu dấu; là niềm vui lớn lao khi Người biết thời cơ cứu nước đã tới gần.
Như vậy “thú lâm tuyền” của Bác vừa giống vừa khác các ẩn sỉ: cùng vui với rừng với suối, cũng sống thanh bần, nhưng không hề quay lưng với đời mà sông giữa đời để làm thay đổi cuộc đời. Nhân vật trữ tình tuy có dáng dấp ẩn sĩ nhưng vẫn là người chiến sĩ kiên trung. Chữ “sang’’ ấy chính là “nhãn tự” đã kết tinh và tỏa sáng toàn bài.
……………..
Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Bài văn mẫu lớp 8: Phân tích hình ảnh Bác Hồ trong Tức cảnh Pác Pó Những bài văn hay lớp 8 của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.