Bài văn mẫu Lớp 11: Bài viết số 1 gồm 3 đề từ đề số 1 đến đề số 3, trong mỗi đề lại có những bài văn mẫu riêng cho các em học sinh lớp 11 dễ dàng ôn tập, tham khảo để lấy ý tưởng viết văn cho mình.
Toàn bộ 40 bài văn mẫu số 1 lớp 11 trong bài viết dưới đây được chọn lọc từ những bài văn mẫu hay nhất của các bạn học sinh giỏi, đạt các giải thưởng lớn trong các kỳ thi cấp tỉnh hay cấp quốc gia. Chính vì vậy đây là nguồn tài liệu vô cùng hữu ích giúp các em tham khảo, rèn kỹ năng viết văn nghị luận ngày một hay hơn. Vậy sau đây là nội dung chi tiết 40 bài văn mẫu, mời các bạn cùng tải tại đây.
Bài viết số 1 lớp 11 đề 1
Dàn ý Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác qua truyện Tấm Cám
I. Mở bài
– Giới thiệu những nét khái quát về truyện Tấm Cám: Truyện cổ tích được nhiều thế hệ thiếu nhi Việt Nam ưa thích
– Đi vào giới thiệu bài học thiện – ác mà truyện đưa đến cho độc giả: Hơn cả nhằm mục đích giải trí, truyện cổ tích Tấm Cám còn cho ta những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa kẻ tốt và người xấu trong xã hội xưa và nay
II. Thân bài
1. Thế nào là cuộc đấu tranh giữa thiện và ác?
– Thiện: tốt đẹp, hợp với đạo đức
– Ác: tính hay gây tai họa, đau khổ cho người khác
⇒ Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu là cuộc đấu tranh với những điều xấu, điều ác gây tai họa cho con người để hướng tới những điều tốt đẹp, hợp đạo đức
2. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong truyện Tấm – Cám
– Cuộc đấu tranh thiện – ác diễn ra với hai mẹ con Cám đại diện cho cái xấu, cái ác:
+ Cám lười biếng nhưng muốn cướp phần thưởng là tấm lụa đào nên đã lừa Tấm lấy hết giỏ tép
+ Mẹ con Cám muốn diệt trừ người bạn duy nhất của Tấm: cá bống.
+ Mẹ con Cám không muốn cho Tấm đi xem hội, đã trộn thóc lẫn gạo, bắt Tấm nhặt riêng ra..
+ Mẹ con Cám đuổi cùng giết tận hòng chiếm đoạt vinh hoa phú quý, không cho Tấm con đường sống
– Tấm là đại diện cho “thiện”, đứng trước hành động của mẹ con Cám:
+ Ban đầu: Chỉ biết khóc
+ Bất bình trước những hành vi mẹ con Cám đã làm
+ Tấm có sự phát triển trong hành động, phản kháng, đấu tranh một cách mãnh liệt để giành và giữ lấy hạnh phúc thuộc về mình thông qua những lần hóa thân
+ Trước sự ngỡ ngàng và khát khao được xinh đẹp như chị, Tấm đã để Cám xuống hố, dội nước sôi cho trắng đẹp rồi chết
+ Dì ghẻ ăn mắm làm từ thịt con gái cũng kinh khiếp lăn ra chết.
⇒ Có ý kiến đồng tình, có ý kiến phản đối kết thúc này bởi nó mâu thuẫn với sự hiền lành, thùy mị của Tấm ⇒ khẳng định Tấm là nhân vật chức năng, thực hiện việc tiêu diệt tận gốc cái ác
3. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong xã hội xưa và nay
– Từ truyện Tấm Cám, có thể thấy, hiện và ác là hai hiện tượng luôn song hành trong xã hội, không khó để bắt gặp các cuộc đấu tranh thiện- ác trong xã hội xưa:
+ Chu Văn An vì bất bình, luôn mong muốn đấu tranh tới cùng cho những điều chân chính, những điều “thiện” mà đang sớ mong vua chém đầu 7 tên gian thần nhưng không thành bèn từ quan về quê sống cuộc đời thanh bạch
– Ngày nay, rất nhiều những tấm gương chiến sĩ đã hi sinh thời gian, công sức và thậm chí là tính mạng để bảo vệ điều thiện đấu tranh cho điều ác:
+ Gần đây nhất là hai hiệp sĩ đường phố của Sài Gòn đã hi sinh tính mạng trên con đường đấu tranh cho điều thiện, ngăn chặn điều ác
⇒ Những con người với cuộc đấu tranh không khoan nhượng vì điều thiện ấy xứng đáng được ngợi ca và trân trọng
4. Mục đích, ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu
– Tại sao lại cần có cuộc đấu tranh thiện- ác?
+ Lúc nào trong xã hội cũng luôn tồn tại hai điều này song song, thiện và ác là hai đối cực của nhau, nếu như xã hội toàn điều ác ⇒ con người rơi vào bi kịch, xã hội sẽ náo loạn
+ Ngược lại, nếu như xã hội ngập tràn những điều thiện ⇒ con người được sống, đón nhận những điều tốt đẹp, xã hội bình yên, con người phát triển
– Nhìn nhận thực tế dù một xã hội phát triển tới đâu thì đâu đó vẫn sẽ luôn tồn tại những điều xấu, điều ác, bởi vậy cuộc đấu tranh thiện – ác là cuộc đấu tranh lâu dài
– Khẳng định dù cho cái xấu có mạnh đến đâu, điều ác có khủng khiếp như thế nào thì cuối cùng điều thiện vẫn sẽ luôn giành chiến thắng
III. Kết bài
– Khẳng định lại vấn đề nghị luận: Câu chuyện Tấm Cám đã để lại những bàn luận trên nhiều khía cạnh khác nhau giữa thiện và ác
– Liên hệ bản thân: Mỗi người cần nhận thức được ý nghĩa của cuộc đấu tranh thiện – ác để không ngừng vươn tới những điều thiện, như thế mới mong có thể trở thành một người tốt
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác qua truyện Tấm Cám – Mẫu 1
Dù có bất kì ở xã hội nào chế độ nào thì vẫn luôn tồn tại hai mặt tốt và xấu, thiện và ác. Chính vì thế cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác vẫn là tâm điểm của mọi sự chú ý. Nếu bạn đã từng đọc truyện Tấm Cám bạn mới thấy được cuộc đấu tranh ấy khốc liệt thế nào. Và nó cũng góp phần thể hiện những khía cạnh khác của xã hội xưa và nay.
Câu chuyện Tấm Cám là một câu chuyện cổ tích được xây dựng trên trí tưởng tượng phong phú của tác giả dân gian và thể hiện mong muốn của họ gửi gắm vào cuộc sống. Câu chuyện xoay quanh nhân vật Tấm một đứa trẻ bất hạnh mồ côi cha mẹ từ thuở tấm bé. Tấm phải sống trong sự ghẻ lạnh ganh ghét của mẹ con dì ghẻ là mẹ con nhà Cám. Họ hết lần này đến lần khác chèn ép và áp bức Tấm. Thân phận yếu đuối Tấm chỉ biết nhẫn nhịn cam chịu mỗi lần ấm ức khóc Bụt lại hiện lên để giúp đỡ Tấm. Cho đến khi Tấm được làm hoàng hậu mẹ con nhà Cám vẫn tìm cách giết Tấm hết lần này đến lần khác. Mẹ con Cám bày mưu để Tấm trèo cau ngày giỗ cha rồi ở dưới chặt cây cau, Tấm chết hóa thành chim Vàng anh. Cám giết chim vàng anh Tấm hóa thành cây xoan đào Vua mắc cửi hóng mát, Cám chặt cây xoan đào làm khung cửi. Khung cửi chửi Cám, Cám đem đốt rồi rắc tro quanh gốc thị, kì lạ cây thị chỉ duy nhất có một quả. Rụng vào bị của bà cụ bán nước bà cụ mang về để ngửi. Ngày ngày Tấm chui từ quả thị ra nấu cơm, dọn nhà cho bà cụ. Bà cụ nhìn thấy từ đó hai người sống nương tựa vào nhau. Nhà vua đi qua tình cờ gặp lại Tấm hai vợ chồng về chung sống hạnh phúc. Thấy chị trở về lại xinh đẹp Cám lân la hỏi chị bí quyết Tấm bày cách cho Cám bằng việc đào một hố sâu rồi nhảy xuống đó. Tấm ở trên đổ nước sôi xuống giết chết Cám. Cám chết, Tấm lấy đầu lâu làm mắm gửi cho mụ dì ghẻ ăn. Mụ ăn đến cuối thấy đầu lâu thì lăn đùng ra chết.
Người xưa đã xây dựng nên hai tuyến nhân vật vô cùng điển hình đại diện cho hai thế lực trong xã hội: Tấm đại diện cho sự thiện lương còn Cám với dì ghẻ đại diện cho cái xấu. Cái thiện là những hành động suy nghĩ tích cực giúp ích cho xã hội. Còn cái ác đó chính là những điều xấu xa làm hại đến con người và cần phải loại trừ trong cuộc sống. Mỗi lần bất hạnh Tấm chỉ biết khóc lóc, đau khổ và mỗi lần như thế Bụt lại hiện lên giúp Tấm giải quyết mọi chuyện. Bụt ở đây chính là đại diện cho cái thiện là đại diện cho số đông những người yêu cái thiện. Những tình huống hư cấu trong truyện là tác giả dân gian sáng tạo nhằm xoa dịu đi sự phẫn nộ của người dân và khẳng định quy luật ở hiền gặp lành. Tấm dù không mạnh mẽ một mình đơn độc nhưng cuối cùng Tấm vẫn chiến thắng những thế lực bạo tàn.
Câu chuyện Tấm Cám phản ánh ước mơ khát vọng bình yên vào cuộc sống. Sự chiến thắng của Tấm chính là sự chiến thắng tất yếu của chân lí. Hành động cuối cùng của Tấm gây nên nhiều tranh cãi cho độc giả. Tuy nhiên nếu bạn đặt nó trong hoàn cảnh bấy giờ thì bạn mới thấy nó hợp lí. Mẹ con Cám đã cố tình bao lần giết chết TẤm một cách tàn nhẫn. Vì thế cái kết cục đó cũng là hoàn toàn dễ hiểu và hợp lí.
Nhưng trên thực tế, rất nhiều những người hiền lành tử tế thì đều không chiến thắng nổi cái ác. Nhất là ở xã hội phong kiến lúc bấy giờ nó bắt ai chết đều phải chết. Cũng chẳng có ông Bụt nào có thể xuất hiện hết lần này đến lần khác được. Câu chuyện chỉ là sự thêu dệt của người dân nhằm nói lên sự khát vọng của xã hội xưa.
Trong cuộc sống hiện tại cũng vậy, không phải lúc nào cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác cũng dành phần thắng. Bạn có thể nhận cuộc đấu tranh ấy ở bất kì đâu trong các gia đình đến ngoài xã hội. Anh em tranh chấp đất đai tiền bạc cha mẹ để lại….Vậy làm sao để công bằng luôn hiện hữu khắp nơi? Vậy thì trước hết bản thân mỗi con người phải thiện lương phải nhận biết được cái tốt và cái xấu để mạnh mẽ lên án và loại trừ nó. Tuyệt đối đừng nên để bản thân mình dính vào những điều sai trái. Bên cạnh đó cũng không nên xa lánh những kẻ có lỗi và biết hối lỗi.
Con người sinh ra ai cũng mong những điều tốt đẹp dành cho mình nhưng thực tế cuộc sống không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Hãy giữ cho mình một tâm hồn lương thiện, thanh cao vì nó sẽ khiến cuộc sống của bạn trở nên ý nghĩa và xã hội tốt đẹp văn mình hơn.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác qua truyện Tấm Cám – Mẫu 2
Vạn vật tồn tại trên thế giới này đều luôn tồn tại những mặt hoàn toàn đối lập. Những mặt đối lập ấy là những đối cực va đập vào nhau giúp cho sự vật trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn. Con người ta cũng thế, luôn tồn tại cái thiện, cái ác trong tâm hồn mình. Để hoàn thiện hơn, con người ta sẽ phải luôn đấu tranh giữa cái thiện, cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu, như trong câu chuyện cổ tích Tấm Cám đã gợi nhắc.
Tấm Cám là câu chuyện cổ tích không còn xa lạ với người dân Việt Nam từ bao đời nay. Bởi cô Tấm gắn liền với hình ảnh quả thị và sức sống mãnh liệt với những lần hóa thân thần kì. Tấm là một đứa trẻ mồ côi, sống với dì ghẻ và cô con gái của mụ trong một căn nhà. Cô Tấm là người hiền lành, chịu thương chịu khó nên luôn nhận phần thua thiệt về mình, phải chịu cảnh sống tủi nhục, bị đàn áp và bóc lột. Mỗi lần uất ức, Tấm chỉ biết khóc lóc. Khi ấy, Bụt – nhân vật thần kì trong những câu chuyện cổ tích, cũng là người giúp Tấm thực thi công lí, sẽ hiện lên giúp đỡ cô. Để được trở lại làm hoàng hậu, Tấm đã bị mẹ con Cám tìm cách giết hại hết lần này đến lần khác: từ hóa thành chim vàng anh rồi bị giết, hóa thành cây xoan đào rồi bị đẵn, hóa thành khung cửi rồi bị đốt đến hóa thành quả thị rơi vào cái bị của bà lão. Cuối cùng, Tấm cũng được trở lại làm người, xinh đẹp hơn xưa gấp bội phần, được đoàn tụ với hoàng tử và trở về trừng trị mẹ con Cám.
Câu chuyện cổ tích ấy cũng có cái kết có hậu giống như biết bao câu chuyện cổ tích khác, rằng cái thiện sẽ chiến thắng cái ác dù có trải qua biết bao biến cố thăng trầm đi chăng nữa. Tấm là hiện thân cho cái thiện trong tâm hồn của ta, hiện thân của người tốt trong xã hội, còn Cám là hiện thân của cái ác, của người xấu xa trong cuộc sống. Sự chuyển biến mạnh mẽ của Tấm trong câu chuyện từ việc thụ động, chỉ biết khóc lóc, bất lực và trông chờ sự giúp đỡ của người khác (ông Bụt) đã trở thành một người chủ động trong cuộc đấu tranh giành lại hạnh phúc của chính mình. Tấm phải chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, mỗi lần sống lại, mức độ cảnh cáo và trả thù mẹ con Cám lại tăng thêm một bậc. Cuối cùng là cái chết đã được định sẵn cho mẹ con Cám. Họ phải trả giá cho những điều độc ác, xấu xa mà mình đã làm. Đó cũng chính là chân lí và niềm tin bất diệt của người xưa vào công bằng xã hội, vào chân lí: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo.
Cuộc sống ngày càng hiện đại, con người phát minh ra những công cụ khiến cho cuộc sống của mình trở nên tốt hơn rất nhiều so với thời kì sơ khai của loài người. Thế nhưng, hệ lụy kéo theo đằng sau đó là con người trở nên yếu đuối và đánh mất mình. Họ quên mất rằng, cái ác, cái xấu luôn luôn tồn tại và hiện hữu trong bản thể của mình. Họ mải mê với những cuộc vui thâu đêm suốt sáng, với những cuộc nhậu nhẹt chơi bời ngày này qua ngày khác. Chính những lúc ấy, cái ác sẽ lấn át cái thiện, sẽ lên ngôi để ngự trị và chi phối con người. Con người thường không có khả năng phòng vệ với những điều nhỏ nhặt. Nhưng chính những điều nhỏ nhặt mà họ tặc lưỡi cho qua ấy lại là mầm mống để cho cái ác lớn lên. Đôi khi, chỉ là những xích mích nhỏ trong gia đình, qua thời gian nó cũng trở thành mâu thuẫn lớn để rồi anh em trong gia đình nhẫn tâm giết nhau, trở mặt thành thù. Gia đình tan nát, người chết, kẻ tù tội. Bỗng chốc, cái gọi là sợi dây liên kết của gia đình đã bị chính những điều nhỏ nhặt ấy cắt đứt. Ngoài xã hội kia, cái ác lại càng hiện hữu một cách rõ ràng hơn nữa. Người ta phải đánh đổi nhiều thứ để có cuộc sống hiện đại, khi cái tôi của mình được đề cao. Đó chính là sự thờ ơ, vô cảm, lãnh đạm giữa con người với con người. Chúng ta đang thờ ơ trước nỗi đau của đồng loại. Chứng kiến cảnh tai nạn giao thông, cảnh bạn bè bị ức hiếp ta không mảy may nghĩ tới việc sẽ giúp đỡ họ. Ta chỉ đứng lại tò mò rồi vội vàng lướt qua như thể đó không phải là việc mà ta có thể can dự vào. Chao ôi, còn đâu quãng thời gian mà con người ta sẵn sàng chia đôi sẻ nửa bát cơm của mình trong những ngày đói cho nhau. Ngày xưa ấy, dù nghèo, nhưng vui, con người sống với nhau tình nghĩa lắm.
Trên thực tế, không hề có ông Bụt nào tồn tại. Ông Bụt trong câu chuyện chính là lý trí, sức mạnh tinh thần của mỗi người – thứ ta có thể dùng để chống lại cái ác trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Không có ai sinh ra đã là người xấu. Chỉ là trong suy nghĩ của họ, cái thiện chưa đủ mạnh hoặc trong khoảnh khắc ấy, họ đã để cái ác lấn át mất phần lương thiện trong mình. Lòng trắc ẩn và tình thương luôn tồn tại trong ta. Chỉ có điều, ta có đủ tỉnh táo và lí trí để giữ vững nó trong cuộc đấu tranh thiện ác khi mà ranh giới của chúng mong manh như sợi chỉ.
Con người ta luôn tin vào chân lí cái thiện sẽ chiến thắng cái ác. Đó trở thành sức mạnh tinh thần khiến cho người ta vượt qua hết thảy những khó khăn, bất trắc của cuộc sống. Bởi vì khi con người ta còn tin, họ vẫn có thể bước đi tiếp dù dưới chân họ là than hồng hay gai nhọn, phía trước có là biển cả hay núi cao thì họ vẫn cứ bước. Vì họ có chỗ dựa tinh thần. Chỉ cần có thế. Nhưng không phải lúc nào cái thiện cũng chiến thắng cái ác. Bởi lẽ, khi đặt nó trong mối tương quan với những vấn đề khác, cái thiện có khi phải chùn bước. Anh em trong một gia đình, có thể chỉ vì ghét nhau mà ruồng bỏ mối quan hệ ruột thịt được hay không? Cho nên, cái chúng ta có thể làm chính là sự thiện lương trong mỗi con người phải luôn lớn hơn cái tôi ích kỉ cá nhân. Mỗi chúng ta cần phải tự ý thức về việc đấu tranh không ngừng với những dục vọng tầm thường, với cái ác và suy nghĩ nhỏ nhen, ích kỉ để hoàn thiện bản thân, để cái tốt trong ta lớn dần lên. Vì, chỉ khi gieo xuống một hạt mầm hạnh phúc, chăm bón nó hằng ngày bằng suy nghĩ tích cực cùng trái tim yêu thương, nó sẽ nảy mầm, xanh tốt và chẳng bao lâu nữa, nó sẽ thành một cây đại thụ với cành lá sum suê, che mát cả tâm hồn con người ta.
Trong cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác, chắc chắn không có sự khoan nhượng và cũng sẽ không có hồi kết. Muốn hoàn thiện hơn, ta buộc lòng phải đấu tranh với chính cái ác tồn tại trong mình và không thể làm ngơ khi cái ác đang diễn ra ngay trước mắt. Chỉ khi ấy, xã hội này mới nhân văn, người với người mới sống với nhau vì tình thương chứ không phải là sự lừa lọc, gian dối.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác qua truyện Tấm Cám – Mẫu 3
Nếu như tục ngữ thiên về biểu hiện trí tuệ của nhân dân trong việc nhận thức thế giới, xã hội và con người, ca dao là tiếng nói tình cảm của người lao động thì truyện cố tích lại thể hiện cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa. Một trong những truyện cổ tích thể hiện cuộc đấu tranh gay go và quyết liệt ấy là truyện Tấm Cám. Qua câu truyện này, nhân dân ta ca ngợi cái thiện, cái tốt và phê phán cái xấu, cái ác.
Để biết được nhân vật nào đại diện cho cái thiện, cái tốt, nhân vật nào đại diện cho cái xấu, cái ác, trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là thiện, là tốt? Thế nào là xấu là ác? Thiện, tốt là những biểu hiện đáng quý về tư cách đạo đức, hành vi, quan hệ phù hợp với đạo đức của nhân dân. Còn xấu, ác chỉ những người hoặc việc thường gây đau khổ, tai hoạ cho người khác.
Như vậy, trong truyện cổ tích Tấm Cám, hai tuyến nhân vật được phân định rất rõ ràng. Một tuyến nhân vật đại diện cho cái thiện, cái tốt là Tấm, ông Bụt, bà lão hàng nước,… mà Tấm là nhân vật chính. Một tuyến nhân vật đại diện cho cái xấu cái ác là mụ dì ghẻ, Cám. Mụ dì ghẻ và Cám đã tìm mọi cách hãm hại Tấm. Có thể nói sự hãm hại này không chỉ một lần mà xảy ra nhiều lần. Ngay từ buổi đầu Cám đã lừa dối Tấm và cướp đi thành quả lao động của Tấm. Phải lặn lội, chăm chỉ, Tấm mới bắt được nhiều tôm tép. Cám lười biếng nhưng lại lừa chị để trút giỏ tép của chị, cướp công của chị. Giả sử chỉ như thế thôi, cũng đủ cho ta lên án Cám về sự giả dối. Đằng này, hết lần này đến lần khác, mẹ con nhà Cám tìm cách hãm hại Tấm. Tấm chỉ có con cá bống làm bạn, nào có ảnh hưởng, có tổn hại gì đâu đến mẹ con nhà Cám. Ấy vậy mà mẹ con nhà Cám cũng tìm cách giết bống. Ngày giỗ bố, Tấm về nhà trèo lên hái cau, mẹ con nhà Cám đã chặt cau, Tấm hoá thành chim vàng anh. Mẹ con nhà Cám lại giết chim vàng anh, Tấm hóa thành cây xoan đào. Cây xoan đào bị chặt, đóng khung cửi. Khung cửi lại bị đốt. Cuối cùng, Tấm hoá thành quả thị. Mẹ con nhà Cám đã giết Tấm quá nhiều lần. Lần sau, hành động của mẹ con nhà Cám lại độc ác, dã man hơn lần trước.
Như vậy, trong cuộc sống xưa, cái ác, cái xấu thuộc về giai cấp thống trị. Trong cuộc đấu tranh, người bị áp bức thường bị thiệt thòi chính là người dân lao động. Vì vậy, nhân dân gửi gắm ước mơ về sự công bằng trong xã hội qua các tác phẩm văn học dân gian. Trong truyện Tấm Cám, ước mơ về công bằng được gửi gắm qua các nhân vật mang yếu tố thần linh, qua nhân vật Tấm.
“Con giun xéo lắm cũng quằn”, Tấm đã từng bước, từng bước phản kháng lại kẻ ác. Nếu như lúc đầu, Tấm chỉ biết khóc khi bị Cám trút hết giỏ tép, khi cá bống bị giết, khi phải ngồi nhặt thóc lẫn gạo, khi không có quần áo đi xem hội thì khi bị giết, Tấm đã đấu tranh không khoan nhượng. Khi hoá thành chim vàng anh, Tấm đã từng hót: “Giặt áo chồng tao thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”. Chỉ là một tiếng hót nhưng đó là tiếng hót của sự phản kháng. Sự đấu tranh quyết liệt hơn khi Tấm hoá thành chiếc khung cửi: “Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét, mắt ra”. Và đỉnh cao của sự đấu tranh giữa cái thiện, cái tốt với cái xấu, cái ác là việc Tấm trừng trị mẹ con nhà Cám. Cám hỏi Tấm làm sao đẹp như vậy, Tấm đã chỉ cách cho Cám. Cám đào một cái hố, Tấm đã dội nước sôi cho Cám chết và lấy xác Cám muối mắm gửi cho mụ dì ghẻ. Việc Tấm trả thù Cám là hoàn toàn xứng đáng. Bởi vì, mẹ con nhà Cám không chỉ giết Tấm một lần mà giết Tấm rất nhiều lần. Nếu Tấm không giết Cám, nhất định mẹ con nhà Cám sẽ lại giết Tấm thêm nhiều lần nữa. “Gieo gió gặt bão” là hậu quả tất yếu. “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”, đó là điều mà nhân dân ta muốn gửi gắm qua câu chuyện Tấm Cám.
Ngày nay, cuộc sống đã tốt đẹp, bình đẳng, nhưng không phải đã hết cái xấu, cái ác. Cái xấu, cái ác biểu hiện cụ thể ở hành động trộm cắp, tệ nạn xã hội, thói ích kỉ, lối sống vô cảm, hành hạ người khác,… được bọc bằng vỏ bề ngoài lịch sự, sang trọng, ở mức độ nguy hiểm hơn cái ác, cái xấu thể hiện ở những vấn đề có tính toàn cầu như huỷ hoại môi trường, chiến tranh hạt nhân,.. Tuy không phải là phổ biến nhưng cũng còn những trẻ em, người già, những người bất hạnh đã bị ngược đãi… Ngày nay, cuộc đấu tranh giữa cái thiện với cái ác, cái tốt với cái xấu phức tạp hơn, đa dạng hơn, cam go hơn nhưng quyết liệt và cuối cùng thắng lợi vì được sự đồng tình, ủng hộ của toàn nhân loại. Ngày nay, chúng ta đấu tranh chống cái ác, cái xấu một cách chủ động bằng cách phát hiện, ngăn chặn nên cuối cùng tội ác của những kẻ vô đạo đức cũng bị lôi ra ánh sáng và bị trừng trị xứng đáng. Để có được chiến thắng, cái thiện, cái tốt đã phải đấu tranh quyết liệt, một mất một còn với ái xấu, cái ác. Không thể có sự nửa vời, khoan nhượng trong cuộc đấu tranh này.
Để góp phần vào cuộc đấu tranh giữa cái thiện, cái tốt với cái ác, cái xấu, mỗi chúng ta cần luôn luôn trau dồi, rèn luyện phẩm chất đạo đức, không ngừng đấu tranh với những thói xấu tồn tại trong bản thân và trong cuộc sống xung quanh.
Với mỗi học sinh, chúng ta không ngừng học tập, nâng cao nhận thức, nâng cao tinh thần cảnh giác với cái ác, cái xấu. Chúng ta không đấu tranh lẻ loi mà phải cần sự đoàn kết, góp sức của cộng đồng. Câu chuyện Tấm Cám đã để lại cho chúng ta một bài học quý về tinh thần đấu tranh chống cái xấu, cái ác, bài học về sự hướng thiện, để mỗi người góp sức mình trong việc xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp, không có chỗ cho cái xấu, cái ác.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác qua truyện Tấm Cám – Mẫu 4
Truyện cổ tích là nơi người Việt xưa gửi gắm những ước mơ, khát vọng của mình trong cuộc sống. Tấm Cám là một câu chuyện hay, tiêu biểu cho cuộc đấu giữa cái thiện với các ác trong xã hội xưa. Vấn đề đặt ra trong truyện vẫn còn nguyên giá trị hiện thực cho đến ngày nay.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong xã hội xưa được khắc họa qua truyện Tấm Cám. Trong truyện, hoàn cảnh của cô Tấm rất đáng thương, mồ côi mẹ từ nhỏ, phải ở với mẹ con Cám, bị mẹ con Cám bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần. Qua đó, ta phần nào hình dung được sự độc ác, nham hiểm của mẹ con Cám. Khi cô còn ở với họ thì bị tước đoạt mọi quyền lợi mà lẽ ra cô xứng đáng được nhận với một nhân cách tốt đẹp như vậy. Sau khi cô trở thành Hoàng hậu, mẹ con họ vẫn không buông tha cho cô, luôn lừa giết cô và cả những lần hóa thân. Từ đó, ta thấy mẹ con Cám là đại diện cho cái ác, cho những điều xấu xa, thấp hèn, trái với lương tâm. Cái ác đó ngày càng lộ liễu, tàn nhẫn với nhiều thủ đoạn. Còn Tấm đại diện cho cái thiện, cho những điều tượng trưng cho chính nghĩa, lẽ phải. Cái thiện luôn bị cái ác chèn ép, bắt nạt, hãm hại. Ban đầu, Tấm nhu nhược, bị động, bị hãm hại chỉ biết khóc và trông chờ vào sự giúp đỡ của Bụt. Thế nhưng con người ta khi bị áp bức quá mức, bị dồn vào thế đường cùng, đi quá giới hạn mà lòng chịu đựng cho phép thì sẽ tự vùng lên, đấu tranh kiên quyết với cái ác để giành lại hạnh phúc cho mình.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong xã hội xưa đã rất căng go, quyết liệt. Cái ác có thế lực mạnh, bất chấp thủ đoạn để hãm hại cái thiện. Nhưng cái thiện không đơn độc mà luôn có sự giúp đỡ của mọi người xung quanh. Cái thiện phải tự trưởng thành, tự đấu tranh để giành lại hạnh phúc. Trong cuộc đấu tranh đó, cái thiện luôn phải trải qua những gian nan, thử thách nhưng kết quả cuối cùng thì phần thắng vẫn nghiêng về cái thiện và cái ác sẽ bị trừng trị thích đáng giống như quy luật ở đời: ”Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, cuộc đấu tranh ấy vẫn không ngừng nghỉ, vẫn đầy cam go, quyết liệt. Cái thiện và cái ác vẫn song song tồn tại. Cái ác ngày càng nhiều thủ đoạn tinh vi hơn, nham hiểm hơn. Các quan chức nhà nước biến chất dựa vào quyền lực và địa vị để tham ô, ăn hối lộ, vùi dập những người dám đấu tranh. Tiêu biểu như ông Nguyễn Đức Kiên Phó chủ tịch hội đồng quản trị ngân hàng ACB đã có những hành vi thu lợi nhuận bất chính, gây rối loạn thị trường tiền tệ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện chính sách tài chính của chính phủ. Giới xã hội đen bất chấp luật pháp, dùng bạo lực và đồng tiền để thực hiện các hành vi phạm pháp, khống chế người khác, trà đạp nhằm mục đích buôn bán chất cấm, phụ nữ và trẻ em. Những kẻ tha hóa, biến chất, lười lao động, ăn chơi xa đọa, sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì trái với đạo nghĩa làm người để thỏa mãn mục đích cá nhân ích kỉ, xấu xa, bỉ ổi của mình mà không thèm quan tâm đến hậu quả về sau. Cuộc đấu tranh trong bản thân mỗi người để chống lại thói hư tật xấu như tham lam, ích kỉ, gian lận, . . . mới là gay go nhất bởi vì trong mỗi con người luôn tồn tại hai mặt tốt và xấu.
Hậu quả do cái gây ra cho xã hội là làm chậm phát triển kinh tế, xã hội, tạo nên sự bất ổn định về chính trị và đời sống của người dân. Gây ra tâm lí hoang mang, lo sợ, mất niềm tin trong các tầng lớp nhân dân. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển chung của con người.
Nguyên nhân do luật pháp còn nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho các loại tội phạm, cơ quan thi hành luật pháp không phải lúc nào cũng nghiêm minh. Lòng tham lam kết hợp với sự ích kỉ, độc ác vẫn còn tồn tại trong một số bộ phận và ngay trong bản thân mỗi người. Ngoài ra, do sự phát triển của xã hội, sống đầy đủ, dư thừa, con người dần suy thoái cũng như xuống cấp về đạo đức và lối sống nên dễ xảy ra các hành vi phạm pháp. Mỗi người cần phải biết sống thiện. Nhưng sống nhu nhược, yếu đuối cũng không phải là sống tốt, trước cái ác con người phải kiên quyết đấu tranh để đòi lại những thứ đáng thuộc về mình.
Vậy trong cuộc sống, dù có thế nào đi chăng nữa thì cái thiện vẫn luôn chiến thắng cái ác. Chừng nào cái ác còn tồn tại, lương tâm đen tối của con người vẫn còn đó, cuộc đấu tranh xung đột giữa cái thiện và cái ác vẫn còn có những người bị chìm trong đau khổ. Thế nên con người cần phải cố gắng hoàn thiện bản thân mình để đến một ngày nào đó cái ác chỉ còn là trong truyện cổ tích mà thôi.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác qua truyện Tấm Cám – Mẫu 5
Từ xưa đến nay, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt với kẻ xấu vô cùng gian nan, phức tạp. Đặc biệt, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong bản thân mỗi con người lại càng phức tạp, gian nan. Xong, kể cả trong xã hội xưa và nay, không phải lúc nào cái thiện cũng chiến thắng cái ác, chính vì vậy mà nhân dân xưa đã đưa những mơ ước, nguyện vọng, lý tưởng xã hội của mình thông qua chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiện vào những câu chuyện cổ tích, tiêu biểu là câu chuyện “Tấm Cám”.
Từ khi con người hình thành tri thức, cái thiện và cái ác đã luôn cùng song hành với nhau trong xã hội. Cái thiện là tất cả những gì có vai trò tích cực, có tác động thuận lợi trong đời sống của con người và toàn xã hội. Cái ác là tất cả những gì gây trở ngại và có hại cho con người và xã hội. Cái thiện và cái ác là hai mặt đối lập nhau nhưng lại là một chỉnh thể.
Bản chất mâu thuẫn và xung đột trong câu chuyện “Tấm Cám” tập trung ở hai tuyến: Tấm và mẹ con Cám. Đầu Truyện mâu thuẫn và xung đột đầu tiên được đưa ra là mâu thuẫn và xung đột trong gia đình phụ quyền. Ý nghĩa xã hội được phản ánh rõ nhất qua cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa các lực lượng đối lập trong xã hội, xuất hiện muộn hơn.
Sớm mồ côi cha mẹ, Tấm sống trong sự ghẻ lạnh của dì ghẻ và Cám. Hằng ngày, Tấm phải làm mọi công việc nhà: “phải làm việc lụng luôn canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, với bèo; đêm lại còn xay lúa mà không hết việc” chỉ để nhận lấy những trận đòn roi từ bà dì ghẻ. Còn Cám thì “được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng”. Khác nhau nhưng chưa đến độ mâu thuẫn.
Sự mâu thuẫn giữa Tấm và Cám dần lộ ra khi Cám lừa chị trút hết tép vào giỏ rồi nhanh chạy về nhà để nhận cái yếm đỏ, còn Tấm thì “ngồi bưng mặt khóc” vì cảm thấy bất công. Kế đến, từ sự việc con cá bóng bị mẹ con Cám bắt ăn thịt, Tấm cũng “oà lên khóc” vì thấy bị thua thiệt, đến việc đi xem hội, Tấm không được sắm sửa quần áo đẹp đã đành, đằng này bà dì ghẻ còn cản trở Tấm bằng cách “bắt cô phải nhặt xong mớ gạo thóc đã được trộn lẫn với nhau”, cô Tấm lại một lần nữa “ngồi khóc một mình”. Rồi cả việc so sánh Cám như “chuông khánh”, còn Tấm là “mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”, “bĩu môi” khi thấy Tấm xuất hiện ở đám hội, “ngạc nhiên và hằn học” nhìn Tấm lên kiệu về cung. Tấm sung sướng bao nhiêu thì mẹ con Cám càng uất hận bấy nhiêu. Tất cả đã phần nào thể hiện được sự mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám, mâu thuẫn sau cao hơn mâu thuẫn trước, từ mâu thuẫn nhỏ đến mâu thuẫn gay gắt, không thể dung hòa. Và sự mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, không phải bằng con đường điều hòa mâu thuẫn.
Sự ganh ghét như loài sâu bọ đục khoét vào sâu trong tư tưởng biến thành ngọn lửa uất hận, khiến cho lương tâm và lý trí ngày cần thối rữa, cho đến khi sự tàn ác lấn át tất cả. Gặp được dịp may hiếm có, Tấm về nhà giỗ cha. Mẹ con Cám lập kế giết chết Tấm hòng cướp đi hạnh phúc mà cô đang có.
Trước lúc chết, mỗi lần Tấm gặp khó khăn, dẫu cho có cảm thấy bất công, bị thua thiệt hay tủi phận, thì cô đều tỏ ra yếu đuối, chỉ biết khóc và nhờ vào sự phù trợ của ông Bụt. Bụt hiện ra, đền bù những thua thiệt, mất mát của Tấm và thường là sự đền bù to lớn, tốt đẹp hơn. Ở phương diện ý nghĩa xã hội, sự giúp đỡ của Bụt thể hiện tình cảm, thái độ của tác giả dân gian, tức đa số nhân dân lao động đối với Tấm, cũng như đối với những người hiền lành, nghèo khổ và có phẩm chất tốt đẹp như Tấm. Mặt khác, có thể nói Bụt đóng vai trò tạo thêm sức mạnh cho Tấm để đi đến thắng lợi. Nhưng ông Bụt giúp Tấm được bao nhiêu thì lại bị cướp đi hết bấy nhiêu và cuối cùng cướp luôn cả mạng sống của Tấm mà ông Bụt cũng bó tay, bất lực. Có lẽ cô quá yếu đuối, yếu đuối đến mức không giữ nổi hạnh phúc của mình, để cho người khác cướp mất. Nếu không muốn nói đó là sự nhu nhược không dám nói lên tiếng nói cho riêng mình, một hiện tượng không những phổ biến trong xã hội phong kiến xưa mà cả trong xã hội hiện nay.
Trong cuộc sống, hạnh phúc thực sự chỉ có thể do bản thân mình tự đấu tranh tranh mà có, bởi ai ai cũng muốn hưởng hạnh phúc, mà cái hạnh phúc ấy thì lại quá ít ổi để có thể chia sẻ. Vậy tại sao cô không thể đứng dậy đấu tranh cho bản thân mình. Vì thế cho nên, ở giai đoạn hậu thân, Tấm phải tự mình đảm nhiệm phần việc mà ông Bụt đã không giúp và không thể giúp. Khi còn sống, Tấm hiền dịu, ngây thơ, nhân hậu bao nhiêu thì sau khi chết cô lại đáo để và quyết liệt bấy nhiêu (tiếng chim vàng anh, tiếng kêu của khung cửi và hành động trả thù mẹ con Cám cuối cùng chứng tỏ điều này).
Phần mẹ con Cám, cái giá của việc cướp đi một sinh mạng là rất nặng nề, nặng đến mức… thậm chí có thể huỷ hoại chính mình. Một khi đã giết người vì lợi ích cá nhân mình, bọn họ đã tự đeo cho mình cái mặt nạ của quỷ dữ không bao có thể tháo bỏ, huống chi họ không những giết Tấm 1 lần, mà là nhiều lần chỉ nhằm bảo vệ cái hạnh phúc giả tạo mà họ đã cướp mất từ tay Tấm. Chính vì vậy họ phải gánh lấy cái giá nặng nề của kẻ giết người. Những kẻ thủ ác đã gặp báo ứng.
Bất kể nơi nào cái thiện tồn tại thì ở đó mầm móng cái ác luôn rình rập. Chúng luôn tác động, bài trừ, gạt bỏ nhau nhưng lại là tiền đề tồn tại cho nhau. Không nơi nào tồn tại toàn những người tốt, và cũng sẽ chẳng có một xã hội với tất cả những công dân xấu cả. Cái tốt cái xấu đã và đang hiện hữu trong mỗi chúng ta, thật sai lầm khi chúng ta sống mà chỉ cố gắng làm điều tốt! Người tốt thật sự là người biết tự nhìn nhận ra những sai lầm của bản thân và tránh lặp lại chúng. Hơn nữa, không có quan niệm thiện, ác nào là vĩnh viễn đối với mọi thời đại, đúng với mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh cụ thể.
Thử đặt trường hợp ngược lại, nếu mẹ con Cám là đại diện cho cái ác lại được sống hạnh phúc cùng nhà vua đến cuối đời thì sao? Lúc ấy bốn chữ “công bằng” và “hoà bình” là đều không thể có được trong xã hội này. Khi ấy trẻ con đến trường, cái mà chúng học được chỉ là lòng thù hận, sự ích kỷ và đố kỵ Thử tưởng tượng một ngày nọ bạn bước ra đường, vô tình bạn thấy một bà cô vấp ngã và tất cả mọi người chung quanh bạn vẫn dửng dưng bước đi. Tưởng tượng sẽ ra sao khi bạn phải đến viện bảo tàng để đọc được cuốn tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của H. Way mà lúc này nó bị xem là tư tưởng phát-xit. Sẽ ra sao khi mà khắp nơi điều có trộm cướp, lừa gạt và những điều đó bị mọi người lờ đi, thờ ơ không đếm xỉa. Trái Đất này sẽ trở thành nơi lạnh nhất trong vũ trụ, vì bởi lẽ “nơi lạnh lẽo nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi sự lạnh nhạt bao trùm”.
Và hãy thử tưởng tượng xã hội sẽ ra sao khi mà ở đó chỉ toàn là người tốt? Một ngày nọ, trên đường phố, chủ các chiếc xe đều nhường nhau chạy trước. Một chủ tiệm vàng trông thấy một người lao công đang thu gom rác cực khổ, liền tặng cho ông ta mấy chỉ vàng. Ông chủ các công ty đứng ở cổng hỏi thăm từng nhân viên rồi tặng vài tháng lương cho những người có hoàn cảnh hơi túng thiếu. Ở các khu phố, người ta đến gọi cửa từng nhà tặng sách giáo khoa trong khi trên Tivi đang đưa tin sách đang lên giá.
Liệu những sự giúp đỡ ấy có thật sự cần thiết không? Người xưa có câu: “Có gian nan mới thử sức người”. Những sự giúp đỡ không đúng lúc ấy không những không giúp ích gì nhiều mà ngược lại còn tập cho họ thối ỷ lại vào người khác, không tự cố gắng. Một xã hội như vậy sẽ ngày một lạc hậu, không thể tiến bộ, phát triển được. Cái ác là cái đáng ghê tởm cần gạt ra khỏi đời sống cá nhân và xã hội. Tuy nhiên cái ác không phải là cái đối lập tuyệt đối của cái thiền. Chúng có sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Ranh giới thiện ác chỉ cách nhau một sợi chỉ nhỏ. Trong học tập của học sinh, cuộc đấu tranh chống những biểu hiện của cái xấu cái ác như: lười biếng, dối trá và gian lận,… cũng rất khó khăn, phức tạp. Chính vì vậy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phải chăm lo rèn luyện đạo đức, có ý thức quan tâm đến những người xung quanh, đấu tranh chốn tránh cái ác. Không ngừng học tập để nâng cao trình độ văn hoá, tiếp thu khoa học và công nghệ hiện đại nâng cao về nhận thức, về chính trị xã hội. Tích cực lao động cần cù sáng tạo. Sẵn sàng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.
Qua câu chuyện “Tấm Cám”, ta thấy được cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay, cái ác có thể mạnh nhưng không thể tồn tại vĩnh viễn, cái thiện có thể yếu nhưng vẫn luôn tồn tại để đấu tranh chống lại cái ác. Và như thể là một chân lý, người ở hiền thì sẽ gặp lành và kẻ gieo gió ắt cũng có ngày gặp bão.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác qua truyện Tấm Cám – Mẫu 6
Trong truyền thống đạo đức của dân tộc ta, cái thiện luôn được trân trọng, đề cao. Đó là “mặt trời chân lý” để mỗi hành động, việc làm của con người hướng tới. Ngược lại, cái Ác luôn được lên án, ghét bỏ kết tội. Trong cuộc chiến giữa cái Thiện và cái Ác, dân gian luôn để cái thiện chiến thắng vẻ vang, đó là ước mơ cũng là sự thật ở đời. Câu chuyện cổ tích Tấm Cám sỡ dĩ được lưu truyền rộng rãi và có sức sống bền bỉ phần lớn vì đã phản ánh được sự chiến thắng của cái Thiện đối với cái Ác đúng như quan niệm của nhân dân: Một chiến thắng đi từ những phản ứng yếu ớt đến mạnh mẽ, từ bị động chịu áp lực đến chủ động phản kháng.
Như ta đã biết, truyện cổ tích ra đời và phát triển khi xã hội đã phân chia giai cấp. Truyện cổ tích phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp ấy. Yếu tố kì ảo được sử dụng để hỗ trợ cho cái Thiện, giúp cái Thiện chiến thắng.
Trong truyện cổ tích Tấm Cám, hai tuyến nhân vật Thiện – Ác phân ra rất rõ rệt. Cái Ác tiêu biểu là dì ghẻ và Cám, đây là hai nhân vật luôn có những hành động áp bức, bóc lột đối với nhân vật khác đồng thời chúng có những âm mưu thâm độc, những hành động độc ác mất hết tính người. Nhân vật Tấm lại đại diện cho cái Thiện, cô đẹp người đẹp nết nhưng phải chịu số phận hẩm hiu bất hạnh: mẹ mất sớm, bố nhu nhược, bị dì ghẻ và cô em cùng cha khác mẹ hiếp đáp.
Khi xã hội đã phân giai cấp, trong quan niệm của dân gian, cái Thiện đồng nghĩa với cái Đẹp, chúng luôn bị chà đạp, ghen ghét. Hơn thế cái Thiện, cái Đẹp còn là những điều thuộc về nhân dân lao động – giai cấp bị áp bức trong xã hội. Ngược lại, cái Ác cũng là cái Xấu, ban đầu chúng rất mạnh, có khả năng áp bức bóc lột cái Thiện, cái Đẹp. Chúng thuộc về giai cấp trên, giai cấp bóc lột trong xã hội.
Cái Thiện bị áp bức như thế nào?
Bao giờ bánh đúc có xương
Thì bà dì ghẻ mới thương con chồng.
Nó thật đúng với trường hợp của mối quan hệ của bà dì ghẻ và Tấm. Phận con chồng, Tấm phải quần quật làm việc nhà từ sớm đến tối, không chút ngơi nghỉ, trong khi đó, Cám con đẻ của dì ghẻ nhởn nhơ rong chơi, biếng nhác. Tấm bị nhiếc móc chửi bới, Cám được cưng nhiều dung túng. Sự bất công ấy được cụ thể trong tình huống hai chị em Tấm Cám đi bắt tép. Cám ham chơi, lười biếng nhưng nhờ xảo trá quỷ quyệt lại được phần thưởng. Chưa hết, mẹ con Cám còn luôn âm mưu triệt mọi nguồn vui sống, mọi mối giao lưu của cám đối với cuộc đời, cho dù đó là con cá bống !Sau đó, chúng ngăn cản Tấm đi dự dạ hội bằng mọi trở ngại cũng chỉ vì độc ác, ích kỉ.
Tấm, trước mọi hành hạ áp bức của mẹ con Cám. cô chẳng biết làm gì ngoài việc ôm mặt khóc. Cô nhẫn nhục nơi xó bếp chính nhà mình. Bị cướp mất cá. Khóc. Bị giết cá bống. Khóc. Không được đi dạ hội. Khóc. Không có quần áo đẹp. Khóc, . . .
Rõ ràng, ban đầu cái Thiện luôn tỏ một vẻ nhẫn nhục đến nhu nhược. Tuy nhiên, nhìn ở một góc độ nào đó, ta thấy được quan niệm “dĩ hòa vi quý”của dân gian. Không ai muốn ân oán chất chồng, chịu thiệt một phần để mong bình yên một thuở. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Vậy đến một ngưỡng nào đó, cái Thiện sẽ vùng lên chống trả.
Ấy chính là cái Ác tàn nhẫn muốn độc chiếm sự sống, âm mưu sát hại cái Thiện. Cái thiện muốn sinh tồn phải chống trả. Và rất phù hợp với bản chất hiền hòa của cái Thiện, sự phản kháng đi từ yếu đến mạnh, từ bị động đến chủ động để rồi giành chiến thắng vẻ vang.
Mụ dì ghẻ và đứa con đẻ ác nghiệt không chiếm được ngôi vị hoàng hậu thì âm mưu giết Tấm. Bốn lần chúng ra tay thì bốn lần đều thất bại: chặt cây cau, giết chim vàng anh, chặt cây xoan đào, đốt khung cửi. Sau mỗi lần bị hại, Tấm không khóc nức nở nhịn nhục. Bị bức hại nàng hóa thân trở về lần đầu nàng chỉ nhắc nhở:
Phơi áo chồng tao thì phơi bằng sào
Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao.
Đây chỉ là tiếng nói của một linh hồn còn vương vấn dân gian. Cụ thể là nhớ nghĩa cũ duyên xưa trở về thăm lại (chồng). Dù biết mình bị giết hại, Tấm không hề oán than, thù hận mẹ con Cám.
Đến lần bị giết hại thứ hai sự tình đã khác. Tấm không nhắc nhở Cám nữa mà lặng lẽ giành lại hạnh phúc của mình. Nàng hóa thân thành cây xoan đào, ngày ngày che mát cho vua, ở bên chồng về tình nghĩa cũ. Rõ ràng là ở đây có một sự thay đổi về thái độ. Tấm đã ý thức sâu sắc về sự mất mát của mình, nàng chủ động tìm lại nó. Tiến thêm một bước nữa, cô còn chủ động tìm đến kẻ thù răn đe:
Kẽo cà kẽo kẹt
Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra.
Tư thế của Tấm bây giờ đã khác trước. Lần trước nàng xác định quan hệ ngang bằng với Cám “tao – mày”; giờ đây nàng coi mình là người trên xưng “chị”. Không chỉ hiểu về nỗi mất mát nàng còn thấm thía căn nguyên của nỗi đau đời mình. Nàng biết mình bị “tranh chồng” và sự đe dọa của Tấm thật quyết liệt “khoét mắt ra”.
Lần hóa thân cuối cùng của Tấm đã quyết tâm vùng dậy làm chủ cuộc đời. làm chủ hạnh phúc của mình. Quả thị thơm lừng như vẻ đẹp nơi cô Tấm ngát hương. Nàng trở về con người để chủ động tận hưởng hương thơm và mật ngọt cuộc sống -thứ mà nàng đáng được hưởng và thật sự đã và đang được hưởng. Đây là một kết thúc có hậu, là khúc khải hoàn viên mãn của cái Thiện trong cuộc đời này.
Sự trở về của cô tấm trong ngôi vị hoàng hậu, sự chiến thắng trọn vẹn của cái Thiện đã chứng minh cho quy luật “Ác giả ác báo”, “Ở hiền gặp lành”. Song cái Thiện đã trải qua bao áp bức, bất công, muốn có kết quả tốt đẹp cuối cùng cái Thiện không thể mãi nhu nhược, nhún mình. Nó phải chủ động đứng dậy giành lại quyền sống quyền hạnh phúc.
Ra đời từ thuở xa xưa trong lịch sử dân tộc, cho đến ngày nay và sẽ mãi mãi mai sau, câu chuyện Tấm Cám được người Việt giữ gìn, truyền lại cho nhau như người xưa giữ lửa và truyền lửa qua mỗi nếp nhà. Ấy là ngọn lửa cho truyền thống dân tộc, truyền thống yêu cái thiện ghét cái Ác. Quan trọng hơn đó là truyền thống đấu tranh với cái Ác để chiến thắng vẻ vang.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác qua truyện Tấm Cám – Mẫu 7
Tấm Cám là một truyện cổ tích thần kì có nhiều tình tiết bi thảm, éo le dữ dội phản ánh cuộc đời đấu tranh khốc liệt giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong cuộc đời.
Phần đầu của truyện rất gần gũi với cuộc sống đời thường: bi kịch đầy nước mắt và tiếng thở dài của những đứa trẻ mồ côi ở với mụ dì ghẻ tham lam, ác độc và đứa em cùng bố khác mẹ có tính ghen ghét. Tấm phải làm quần quật, đầu tắt mặt tối, ăn đói mặc rách, còn Cám thì được ăn trắng mặc trơn, không phải mó tay động chân tới bất cứ công việc nào. Chỉ cần giành được cái yếm đỏ mà Cám đã đánh lừa chị để trút sạch tét trong giỏ chị. Mẹ con mụ dì ghẻ đã âm mưu, thủ đoạn bắt giết con bống là một hành động cực kì nhẫn tâm và độc ác nhằm tước đoạt niềm vui nhỏ nhoi, bình dị của Tấm, đẩy Tấm vào con đường đau khổ, cô đơn. Cái kế trộn đấu thóc lẫn đấu gạo bắt Tấm ngồi nhặt, không cho tấm đi hội đã cho thấy cái thói ghét ghen, lòng dạ đen tối, tâm lí sống nhỏ nhen của mụ dì ghẻ – một mụ đàn bà mất hết cả tình người. Nếu Tấm có được đi hội thì cô cũng không thể đi được khi chỉ có váy áo rách rưới mặc trên người.
“Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng!” cảnh mẹ con mụ dì ghẻ đối xử độc ác, tàn nhẫn với Tấm là chuyện nhan nhản trong cuộc đời xưa nay, mỗi người trong chúng ta đã từng nghe thấy và từng biết. Cái ác và bộ mặt của những kẻ như mụ dì ghẻ trong truyện “Tấm Cám”, trong xã hội làm cho bất cứ ai cũng phải ghê sợ và khinh bỉ.
Sự xuất hiện nhiều lần của nhân vật Bụt đã là cho nước mắt của Tấm ngừng chảy, vơi bớt tiếng thở dài. Bụt đã bày cho Tấm cách nuôi bống, gọi bống để có niềm vui, được sống trong “tình bạn”. Bụt đã bày cho Tấm cách gọi đàn chim sẻ bay đến nhặt thóc giúp Tấm. Bụt đã bày cho tấm cách chôn xương bống vào chân giường để sau này có áo quần lụa mớ bảy mớ ba, có dây thắt lưng lụa thiên lý, có nón quai thao, có giày thêu và ngựa tía để đi hội. Tiếng nói của Bụt mới chan chứa yêu thương, mới nhiệm mầu biết bao! Nhờ Bụt mà Tấm trở nên xinh đẹp, mới được đi hội. Nhờ Bụt mà Tấm được trở thành hoàng hậu, được sống trong cuộc đời vinh hoa, phú quý.
Bụt trong cổ tích “Tấm Cám” là hiện thân của niềm mơ ước của nhân dân lao động về sự đổ đời, về hạnh phúc. Những gì không thể xảy ra trong cuộc đời thì chỉ có thể ở trong mơ ước. Mơ ước ấy đã thể hiện triết lí về niềm tin “ở hiền gặp lành” của nhân dân ta. Cuộc đời nhiều đắng cay, đen tối, bị cái ác bủa vây, vùi dập, cuộc đời nhiều máu và nước mắt, nên nhân dân mới mơ ước được đổi đời.
Truyện cổ tích “Tấm Cám” đẹp về một giấc mơ đổi đời làm cho mỗi chúng ta xúc động:
“Ở hiền thì lại gặp hiền
Người hay thì gặp người tiên độ trì
Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa”.
(Truyện cổ tích nước mình – Lâm Thị Mỹ Dạ)
Phần hai của truyện cổ tích “Tấm Cám” phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác diễn ra không ngừng, càng về sau càng trở nên dữ dội, khốc liệt. Mẹ con mụ dì ghẻ tìm đủ mọi mưu mô, thủ đoạn tàn ác, dã man để tiêu diệt Tấm đến cùng, quyết giành cho được vinh hoa, phú quý.
Hoàng hậu Tấm về quê giỗ cha. Tấm trèo cau hái quả để cúng cha. Mụ dì ghẻ đã cầm dao đẵn gốc cau, Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ đưa Cám vào cung lấy vua thay Tấm. Tấm hóa thành chim vàng anh đem lại niềm vui cho vua. Vàng anh hay hồn Tấm cất tiếng oan: “Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch / Giặt mà không sạch, tao rạch mặt ra”.
Chim vàng anh bị Cám bắt giết thịt. Lông chim vàng anh hóa ra hai cây xoan đào rợp bóng rất đẹp. vua sai lính hầu mắc võng vào hai cây xoan đào nằm nghỉ hóng mát. Cám sai thợ chặt cây xoan đào đóng khung cửi. Cám vừa ngồi vào khung cửi đó thì nghe khung cửi nguyền rủa: “Cót ca cót két / Lấy tranh chồng chị / Chị khoét mắt ra!”.
Cám đốt khung cửi, đem tro đi đổ. Từ đống tro lại mọc lên cây thị xanh tốt. Thị ra hoa, kết trái. Chỉ có một quả thị trên cành, tỏa mùi thơm ngào ngạt. Thị đã rụng vào bị bà lão hàng nước… Cô Tấm tái sinh. Cô Tấm xinh đẹp từ trong quả thị bước ra, trở lại với cuộc đời. Nhà vua chỉ nhìn qua miếng trầu têm cánh phượng mà nhận ra Tấm, người vợ xinh đẹp, yêu thương của mình.
Sau khi bị giết, Tấm không ngừng tái sinh, phục sinh nhưng đã bị Cám tìm đủ mọi cách tàn sát, hủy diệt. Chim vàng anh bị Cám giết thịt. Cây xoan đào bị Cám đốn. Khung cửi bị Cám đốt. Cây thị mọc lên tươi tốt. Thị kết trái. Tấm được phục sinh rồi được gặp lại nhà vua. Đó là những kiếp luân hồi của Tấm. Đó là sức sống mạnh mẽ, bất diệt của Tấm. Tấm bị sát hại, nhưng hồn Tấm vẫn căm giận kết án kẻ độc ác đã giết chết mình.
Quá trình biến hóa của Tấm trong phần hai truyện cổ tích “Tấm Cám” đã thể hiện sức chiến đấu kiên cường bất khuất, sức sống mạnh mẽ bất diệt của nhân dân lao động, của cái thiện trước cái ác, trước mọi thế lực đen tối và tàn bạo, trước mọi âm mưu quỷ quyệt. Cho dù bị giết chết, bị xé xác, bị phanh thây, cho dù bị đốt xác thì Tấm vẫn bất diệt!
Phần cuối của truyện là kết cục đáng đời của hai mẹ con người đàn bà tham lam, độc ác và quỷ quyệt. Cám chui xuống hố sâu, bị giội nước sôi mà chết. Mụ dì ghẻ thấy Cám chết rồi cũng lăn đùng ra chết. Hành động trả thù của Tấm và cái chết của hai mẹ con Cám đã thể hiện cuộc đấu tranh đẫm máu giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong cuộc đời xưa, nay. Đó là mơ ước của những con người bị áp bức, bị vùi dập. Và đó cũng là triết lí, là niềm tin của nhân dân: “Ác giả ác báo”.
Trên con đường đi tìm chân lí, tìm ấm no hạnh phúc, những truyện cổ tích thần kì như truyện “Tấm Cám” mãi mãi là bài ca về những mơ ước đẹp, giàu nhân bản cho ta niềm vui, niềm tin và sức mạnh trừng phạt cái ác, chiến thắng cái ác.
Bài viết số 1 lớp 11 đề 2
Dàn ý Hiền tài là nguyên khí quốc gia
I. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu ý nghĩa của tư tưởng
Khi xưa Thân Nhân Trung đã viết nên “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” để nhấn mạnh điều ấy và còn có mục đích kêu gọi người tài đóng góp cho đất nước. Tróng đó có nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”. Quả thật, sự trường tồn của một quốc gia nằm ở chính tài năng của mỗi người trong quốc gia đó. Đó là ngày xưa, vậy thời nay, vai trò của người tài như thế nào đối với sự phát triển hung thịnh của một quốc gia?
II. Thân bài
1. Thế nào là “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
- “Hiền tài” là người tài cao, học rộng và có đạo đức, có ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của quốc gia.
- “Nguyên khí” được hiểu là sức mạnh vật chất, tinh thần tiềm tàng nơi con người, nơi đất nước đó có và mong muốn có,có giá trị quan trọng với mỗi quốc gia.
- “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” có nghĩa là: Hiền tài, chính là phần cốt lõi, chất ban đầu để làm nên sự sống còn và phát triển của đất nước. Quốc gia có nhiều hiền tài và biết sử dụng hiền tài thì sẽ phát triển vững mạnh.
2. Giải thích tại sao “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
- Một đất nước nếu không có hiền tài không thể giữ vững được độc lập, kinh tế, phát triển của dân tộc.
- Xa xưa, lịch sử đã chứng minh, nếu không có những bậc hiền tài như Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, hay Hồ Chủ tịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp,… đất nước chúng ta liệu có được nền độc lập hoà bình như ngày hôm nay.
- Hiện đại, nếu không có những nhà nghiên cứu khoa học ngày đêm tìm ra các loại thuốc chữa trị thì liệu cuộc sống của ta có yên ấm. Người hiền tài có vị trí vô cùng quan trọng với đời sống xã hội của chúng ta.
- Người tài hẳn là những người giỏi, thông minh, có óc sáng tạo, có tầm hiểu biết sâu rộng về mọi mặt đời sống. Sự hiểu biết sâu rộng đó góp phần đưa đất nước phát triển hơn, hiện đại hơn và vươn ra với bạn bè quốc tế.
- Hiền tài còn là những người có khả năng phán đoán, suy xét thấu đáo, có tầm nhìn xa trông rộng, có thể vạch ra nhưng đường hướng quan trọng cần thiết cho đi lên của xã hội trong tương lai. Những đường hướng của họ có ảnh hướng lớn tới đất nước bởi xã hội mỗi ngày đổi thay, buộc người tài phải chú ý và xây dựng những hướng đi đúng đắn cho dân tộc.
- Hiền tài không chỉ là những người tài giỏi, mà hiền tài còn là những người có đức tính tốt, sống hi sinh, sẵn sàng hi sinh mọi lợi ích cá nhân để suy nghĩ cho cả cộng đồng vì một tương lai phát triển rực rỡ của cả đất nước.
3. Làm thế nào để phát huy vai trò của người tài trong sự phát triển chung của đất nước trong xã hội ngày nay
- Việt Nam hiện nay là một nước phát triển, và tình trạng làm lãng phí một nguồn chất xám lớn, tạo khoảng cách giàu nghèo rõ rệt giữa nước ta với các cường quốc khác.
- Một lực lượng lớn trí thức trẻ đang tìm kiếm cơ hội cho bản thân ở những quốc gia khác có điều kiện sống và phát triển năng lực bản thân mạnh mẽ hơn. Nhiều người sau một thời gian học tập và làm việc tại một số quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Mĩ,… đã quyết định định cư lâu dài, không quay trở lại làm việc trong nước.
- Đất nước muốn giữ được người hiền tài thì phải có những phương án lâu dài và hợp lý trọng dụng người tài. Nhà nước phải có chính sách đảo tạo và sử dụng đúng đắn cùng chính sách đãi ngộ trân trọng, hợp lí. Tạo điều kiện thuận lợi để hiền tài phát triển tài năng và cống hiến có hiệu quả nhất cho sự nghiệp phát triển đất nước giàu mạnh, tạo được nhiều môi trường làm việc xứng đáng, phù hợp.
- Mỗi cá nhân không ngừng phát triển, bồi dưỡng kiến thức và đạo đức để trở thành hiền tài đất nước, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
III. Kết bài
- Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, yêu cầu phát triển đất nước càng đặt ra một cách bức thiết. Để sánh vai cùng các nước mạnh trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần có nhiều hơn nữa những người hiền tài. Chính bởi vậy tư tường của Thân Nhân Trung lại được khẳng định tính đúng đắn và tiến bộ của nó. Đây chính là kim chi nam của một quốc gia phồn vinh, thịnh vượng thực sự.
Hiền tài là nguyên khí quốc gia – Mẫu 1
Thế hệ ngày nay, chắc nhiều người biết Thân Nhân Trung viết bài văn cho tấm bia đầu tiên ở Văn Miêu, ông ghi nhận về trí thức “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống thấp.” Đây là tư tưởng quan trọng nhất về văn hoá, giáo dục của Thân Nhân Trung được trình bày tập trung, rõ ràng trong bài ký đề tên bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3(1442). Còn chính là khát vọng của cả dân tộc. Tư tưởng trên, trước hết khẳng định tầm quan trọng của hiền tài đối với quốc gia, là việc đem lại hưng thịnh cho đất nước.
Trong bài kí, Thân Nhân Trung không nói nhân tài mà nói “hiền tài”, Hiền tài theo quan niệm người xưa, cũng như của tác giả là người có cả tài năng không những học rộng hiểu nhiều, có đủ tài giúp vua trị nước, đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân; có cả đức hạnh, là người gương mẫu về đạo đức, suốt đời chăm lo tu dưỡng phẩm hạnh cho bản thân, đem hết tài năng và đức hạnh phục vụ cho đất nước. Đó là người “lấy trung nghĩa mà rèn cho danh thực hợp nhau, thực hành điều sở học, làm nên sự nghiệp vĩ đại sáng ngời, khiến cho mọi người đời sau kính trọng thành danh, mến mộ khí tiết…”. Về khái niệm “nguyên khí”, trong kho tàng thư tịch cổ Trung Hoa đã có nhiều sách đề cập. Sách “Bạch hổ Thông” viết: “Địa giả, nguyên khí sơ sinh, vạn vật chi tổ” (Đất là nơi sản sinh ra nguyên khí, tổ của muôn loài), xem nguyên khí là khí đại hoá lớn lao. Còn sách “Đường thư” viết: Liễu Công Độ thiệp nhiếp sinh. Thường viết: “ Ngô sở vô thuật, bất dĩ nguyên khí tả hỉ nộ nhĩ” (Liễu Công Độ giỏi việc dưỡng sinh. Ông thường nói: Ta vốn không có thuật gì, chẳng qua biết dựa vào tính khí mà điều hoà sự yêu ghét, mừng, giận mà thôi), xem nguyên khí là để chỉ tính khí con người ta. Thần Nhân Trung đã mượn nghĩa từ sách Đường thư: nguyên khí chính là tình khí và vận dụng một cách sáng tạo.
Có thể nói, trong lịch sử văn hoá, giáo dục trước đời Lê Thánh Tông, chưa có ai đặt vấn đề như ông. Người ta không ai là không biết mối quan hệ giữa hiền tài và sự thịnh suy của một triều đại, một quốc gia. Nhưng còn coi người “hiền tài là nguyên khí quốc gia” thì phải ghi nhận bắt đầu từ Thân Nhân Trung một câu tổng kết chính xác cho cả một đường lối chiến lược về văn hoá, giáo dục của bất cứ một thời đại nào, một chính thể nào.
Tư tưởng ấy, một lần nữa được nhắc lại trong bài kí để tên bia Tiến sĩ khoa Đính Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1487): “Nếu không có người tài đông đảo thì làm sao có được sự thịnh trị thanh bình” và “muốn có nền giáo hoá, đất nước thịnh trị đó là cái gốc của nó là phải có hiền tài”.
Quan niệm “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” do Thân Nhân Trung đưa được ra các vương triều phong kiến Việt Nam từ triều vua Lê Thánh Tông trở đi coi như một tư tưởng quan trọng trong quốc sách văn hoá, giáo dục.
“Nhân tài thịnh, chính trị lên cao, vận nước nhà rực rỡ vô cùng, càng sâu xa càng lâu dài, mà càng sáng sủa lớn lao thêm” (Bia số 4, khoa Bính Tuất, niên hiệu Quang thuận 7, 1467). “Quốc gia có người tài cũng như thân thể con người có nguyên khí. Nguyên khí cường thịnh thì con người được hưởng thọ lâu dài, người tài đông đảo thì quốc gia được thái bình vững chãi “(Bia số 29, khoa Bính Thìn, niên hiệu Hoằng Định 20, 1616).
Quan niệm như thế là khẳng định hiền tài định đoạt vận mệnh đất nước, dân tộc. Tư tưởng này dẫn đến sự cầu hiền. Đồng thời nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc “chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài bồi đắp thêm nguyên khí”.
Có thể nói, ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ nền giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò người trí thức lại được đề cao, đãi ngộ như đời Lê Thánh Tông. Chính vì thế, trong gần 40 năm làm vua, Lê Thánh Tông đã đưa nhà Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hồi thế kỷ XV. Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là vua “anh hùng, tài lược”.Vai trò của nhà nước, người đứng đầu chế độ phong kiến là nhà vua. Muốn bồi dưỡng được hiền tài, theo Thân Nhân Trung người trên (nhà vua) phải biết chăm lo cho dân, lo việc nước khiến cho nước mạnh dân giàu. “Hiền tài phồn thịnh có quan hệ đến khí hóa của trời đất và cốt ở cái gốc giáo hoá của thánh nhân”. Nói sự giáo hoá của thánh nhân là nói về sự quan tâm đặc biệt của nhà vua đối với việc giáo dưỡng tuyển chọn và đãi ngộ nhân tài. Thời đại của Thân Nhân Trung sống, Lê Thánh Tông là một minh quân có tầm nhìn chính trị, có trình độ văn hoá, có tinh thần yêu nước thương dân, chú trọng đến đào tạo và sử dụng hiền tài trong xây dựng đất nước đưa quốc gia Đại Việt trở thành thịnh trị. Việc đào tạo người hiền tài, sử dụng người tài của vua Lê Thánh Tông được phản ánh rõ nét ở 12 khoa thi Tiến sĩ lấy đỗ 502 người, trong đó có 10 người đỗ đệ nhất giáp, đệ nhất danh, và huy động các hiền tài tham gia công cuộc chấn hưng mạnh mẽ nước nhà. Nhà vua còn cho dựng bia khắc tên những người thi đỗ và đặt ở Quốc Tử Giám.
Tiếp thu tinh hoa văn hoá truyền thống dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà văn hoá, giáo dục lớn, Người suốt đời chăm lo cho độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân, “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Cho nên, đất nước vừa giành độc lập, Người đặt giáo dục là một trong nhiệm vụ hàng đầu để chấn hưng đất nước. Người chỉ ra rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người kêu gọi mọi người Việt Nam có quyền lợi và bổn phận học kiến thức mới để xây dựng nước nhà; nhất là các cháu thiếu niên phải ra sức học tập để cho non sông Việt Nam, dân tộc Việt Nam được vẻ vang sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Bên cạnh việc chăm lo giáo dục đào tạo Người còn sử dụng chính sách chiêu hiền tài. Người đưa vào chính phủ lâm thời, các bộ, một số trí thức là những bậc nhân sĩ yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, các luật sư, bác sĩ, kỹ sư Tây học như Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Minh Giám, Tôn Thất Tùng…Vận động một số trí thức yêu nước đang nghiên cứu, làm việc ở Châu Âu như Trần Đại Nghĩa, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Thọ, Đặng Văn Ngữ…về nước tham gia kháng chiến. Rồi các văn nghệ sĩ nổi tiếng thời ấy cũng đứng vào hàng ngũ dưới lá cờ của Bác như Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đình Thi…Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đội ngũ trí thức ấy đã đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của dân tộc. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng hiền tài. Người đặt nhiệm vụ phải đào tạo con người Việt Nam mới vừa hồng vừa chuyên (có đủ đức tài) đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người coi văn hoá giáo dục là một mặt trận quan trọng của sự nghiệp cách mạng trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể và có tác dụng to lớn đối với sự phát triển của một đất nước, một dân tộc. Trên tinh thần ấy, từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn khẳng định: “Cùng với khoa học và công nghệ , giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “khoa học công nghệ là động lực, giáo dục và đào tạo là nhân tố cơ bản để tạo ra động lực” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành T.Ư khoá IX) cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giáo dục, đào tạo và sử dụng hiền tài đã chấn hưng nền giáo dục nước nhà, phát huy bản lĩnh và tài năng, nhận đúng vai trò của người hiền tài trong tiến trình giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước độc lập, phồn vinh là truyền thống quí báu của cha ông ta được Thân Nhân Trung nêu lên cách đây hơn 500 năm.
Ngày hôm nay, đất nước đang chuyển mình trong hoàn cảnh mới của dân tộc và thời đại, đang hội nhập kinh tế, chuẩn bị nội lực, thực lực cho kinh tế Việt Nam khi nước ta hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới và lĩnh vực giáo dục, đào tạo, làm sao để Việt Nam có một nền giáo dục chất lượng cao, chính sách sử dụng nhân tài như thế nào để người tài có điều kiện phát huy hết khả năng của mình, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là những vấn đề nóng nhất mà chúng ta cần quan tâm để xây dựng và phát triển đất nước. Giáo dục đang trở thành quốc sách hàng đầu, chấn hưng giáo dục là chìa khóa mở cửa vào tương lai dân tộc. Văn hoá, khoa học và đội ngũ trí thức đang giữ vai trò quan trọng đối với sự nghiệp chung của đất nước. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” của Trần Nhân Trung thường xuyên nhắc nhở các triều đại về chính sách đối với kẻ sĩ, và luôn luôn minh chứng lời nói bất hủ của ông về sự thịnh suy của đất nước gắn liền với sự thịnh suy của hiền tài.
Hiền tài là nguyên khí quốc gia – Mẫu 2
Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nhìn nhận:
“Tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu”
để khẳng định giá trị của những trang nam tử, hảo hán cũng như những người tài trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Từ xưa tới nay, người ta luôn đề cao vai trò của hiền tài trong bất cứ hoàn cảnh, triều đại nào. Cũng bàn về vấn đề này, trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại bảo thứ ba – 1442, Thân Nhân Trung đã đề bút: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp.
Thật vậy, với mỗi quốc gia, hiền tài chính là nguyên khí. “Hiền tài” là từ Hán Việt dùng để chỉ những con người vừa tài giỏi lại vừa có tâm, có đạo đức và phẩm chất hơn người. Những người này sẽ mang đến sự hưng thịnh cho quốc gia. Còn “nguyên khí” là cốt khí, sức mạnh nội tại của mỗi quốc gia, dân tộc trong công cuộc xây dựng đất nước. Nói như thế có nghĩa, người vừa có tài, vừa có đức chính là sức mạnh nội tại lớn lao để đất nước có thể phát triển đi lên. Thân Nhân Trung đã nhìn nhận thật sắc vấn đề này, khi khẳng định, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp.
Có thể nói ngoài Thân Nhân Trung thì chưa có bất kì một ai có thể nói nên mối liên hệ giữa hiền tài và sự suy thịnh của một triều đại một quốc gia. Ông đã đặt ra một sự gắn kết chính xác một đường lối chiến lược về văn hóa giáo dục và nó đúng cho dù ở bất cứ một triều đại, một thế kỉ nào.
Và cũng kể từ khi Thân Nhân Trung đưa ra nhận định này nó đã được các triều đại phong kiến coi như một tư tưởng quan trọng trong quốc sách văn hóa giáo dục. Quan niệm như thế khẳng định hiền tài có vai trò ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh dân tộc, Đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài.
Thời đại của nhà vua Lê Thánh Tông là thời đại hưng thịnh phát triển trên nhiều mặt , đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước chính vì thế nên dưới thời này đất nước có đến 502 người đỗ tiến sĩ trong đó có 10 người đỗ đẹ nhất giáp, đệ nhất danh và những vị hiền nhân này có vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc chấn hưng mạnh mẽ nước nhà.
Và tiếp thu truyền thống tốt đẹp đó Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đề cao vai trò của việc đào tạo nhân tài. Người đã từng nói chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chính vì thế mà ngay sau khi dân ta giành được độc lập người đã đặt cho giáo dục một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Và Người cũng nhấn mạnh “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. NGười kêu gọi các cháu thiếu nhi phải ra sức học tập để sánh vai với các cường quốc năm châu.
Bên cạnh đó Người cũng sử dụng chính sách chiêu mộ nhân tài đưa vào chính phủ lâm thời. một số những bậc nhân sĩ có tài lại yêu nước có thể kể đến như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Nguyễn VĂn Huyên, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Hữu Thọ….Quan điểm của Bác cũng được kế thừa từ quan điểm dùng hiền tài chấn hưng nền giáo dục nước nhà đã được Thân Nhân Trung nêu lên cách đây hơn 500 năm.
Có thể nói dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất kì chế độ nào thì việc đào tạo nhân tài cũng có vai trò vô cùng quan trọng. Nó không chỉ làm cho cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn mà điều quan trọng nó còn khiến cho vận khí đất nước trở nên phồn vinh hơn.
Hiền tài là nguyên khí quốc gia – Mẫu 3
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì nước yếu, rồi xuống thấp”. Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi đời xưa chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài, bồi đắp nguyên khí quốc gia. Đây là tư tưởng quan trọng nhất về văn hóa, giáo dục của Thân Nhân Trung được trình bày tập trung, khá rõ ràng trong bài kí đề tên bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Bảo Đại thứ 3 (1942).
Tư tưởng trên trước hết khẳng định tầm quan trọng của hiền tài đối với quốc gia là việc đem lại hưng thịnh cho đất nước.
Trong bài kí, Thân Nhân Trung không nói nhân tài mà là hiền tài. Hiền tài theo quan niệm của người xưa, cũng như của tác giả là người có cả tài năng không những học rộng, hiểu nhiều mà còn có đủ tài giúp vua trị nước, đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân; ngoài ra, còn có cả đức hạnh, là người gương mẫu về đạo đức, suốt đời chăm lo tu dưỡng phẩm hạnh cho bản thân, đem hết tài năng và đức hạnh phục vụ cho đất nước, làm nên sự nghiệp sáng ngời khiến đời sau kính trọng thanh danh, mến mộ khí tiết, về khái niệm “nguyên khí” trong kho tàng thư tịch cổ Trung Hoa đã có nhiều sách đề cập.
Sách “Bạch Hổ Thông” viết: “Địa giả, nguyên khí sơ sinh, vạn vật chỉ tổ” (Đất là nơi sản sinh ra nguyên khí, tổ của muôn loài), xem nguyên khí là khí đại lớn lao. Còn sách “Đường từ” viết: Liễu Công Độ thiệp nhiếp sinh. Thường viết: Ngô sở vô thuật, bất dĩ nguyên khí tả hỉ nộ nhĩ (Liễu Công Độ giỏi việc dưỡng sinh. Ông thường nói: Ta vốn không có thuật gì, chẳng qua biết dựa vào tính khí mà điều hòa yêu ghét, Mừng giận mà thôi), xem nguyên khí là để chỉ tính khí của người ta. Ở đây, Thân Nhân Trung đã mượn nghĩa từ sách Đường Thi: “Nguyên khí quốc gia” chính là tinh khí, khí chất, là cái hồn cốt của dân tộc ấy và vận dụng nghĩa ấy một cách sáng tạo.
Người ta không ai là không biết mối quan hệ giữa hiền tài và sự thịnh suy của một triều đại, một quốc gia. Nhưng coi “hiền tài là nguyên khí” thì phải ghi nhận bắt đầu từ Thân Nhân Trung, một câu nói tổng kết chính xác cả một đường lối chiến lược về văn hóa, giáo dục của bất cứ một thời đại, một chính thể nào. Tư tưởng ấy một lần nữa được nhắc lại trong bài kí đề bia Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1487): “Nếu không có người tài đông đảo thì làm sao có được sự thịnh trị thanh bình” và muốn có nền giáo hóa, đất nước thịnh trị thì cái gốc của nó là phải có hiền tài.
Quan niệm “hiền tài là nguyên khí quốc gia” do Thân Nhân Trung đưa ra đã được các vương triều phong kiến từ thời Lê Thánh Tông trở đi coi như một tư tưởng quan trọng trong quốc sách văn hóa giáo dục. “Quốc gia có người tài cũng như thân thể con người có nguyên khí. Nguyên khí cường thịnh thì con người được hưởng thọ lâu dài, người tài đông đảo thì quốc gia được thái bình vững chãi. (Bia số 29, khoa Bính Thìn, niên hiệu Hoằng Định 20, 1616). Từ sự quý trọng hiền tài, tư tưởng nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc “chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài, bồi đắp thêm nguyên khí”. Thời kì phong kiến, vai trò của nhà nước mà đứng đầu là nhà vua đóng vai trò quan trọng. Muốn bồi dưỡng hiền tài thì người trên (nhà vua) phải biết chăm lo cho dân, lo việc nước, khiến cho nước mạnh, dân giàu. Nhà vua đặc biệt quan tâm đến việc giáo dưỡng, tuyển chọn và đãi ngộ nhân tài, nhờ thế mà sẽ đưa quốc gia trở thành thịnh trị.
Tư tưởng tiến bộ của Thân Nhân Trung có ý nghĩa trong mọi thời. Xưa nay, hiền tài vẫn luôn được coi trọng và những người hiền tài vẫn luôn là những người mang lại vinh quang cho quốc gia, dân tộc. Đó là câu chuyện tiếp đãi sứ giả Trung Quốc của nhân dân ta truyền lại. Là Nguyễn Trãi dâng “Bình Ngô sách” thời Lê Lợi; là Trần Quốc Tuấn viết “Hịch tướng sĩ” kêu gọi, động viên tướng sĩ đứng lên quyết tâm chống giặc… Đó là những bậc hiền tài của quốc gia vừa giỏi binh pháp lại vừa có đức nhân. Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ, nhà văn hóa lớn của dân tộc cũng là tấm gương sáng về một hiền tài của dân tộc. Không chỉ có thế, giống như những nhà chiến lược tài ba khác, người nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Vừa giành độc lập, người đặt giáo dục là một trong những nhiệm vụ hàng đầu để chấn hưng đất nước.
Người chỉ ra rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người kêu gọi mọi người Việt Nam có quyền lợi và bổn phận học kiến thức mới để xây dựng nước nhà, nhất là các cháu thiếu niên phải ra sức học tập để cho non sông Việt Nam, dân tộc Việt Nam được vẻ vang sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng rất có ý thức trong việc trọng dụng nhân tài. Người đặt nhiệm vụ phải xây dựng con người vừa hồng vừa chuyên (có đủ đức, tài); coi văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng của sự nghiệp cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể và có tác dụng to lớn đến sự phát triển của một quốc gia, một dân tộc. Đó chính là một biểu hiện của sự tiếp thu tư tưởng tiến bộ từ thời Thân Nhân Trung trong quan niệm của một vị lãnh tụ vĩ đại.
Ngày hôm nay đất nước đang chuyển mình trong những hoàn cảnh mới của thời đại và dân tộc. Làm thế nào để chuẩn bị thực lực và nội lực cho kinh tế Việt Nam bước vào hội nhập?. Làm thế nào để có một nền giáo dục chất lượng cao, vươn tới tầm thế giới?. Làm thế nào để có một chính sách sử dụng nhân tài hợp lí để họ có điều kiện phát huy hết khả năng của mình, phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước?. Đó đã và đang là những vấn đề nóng được Đảng, Nhà nước và mọi người dân quan tâm. Giáo dục đang trở thành quốc sách hàng đầu, chấn hưng giáo dục là chìa khóa mở cửa vào tương lai. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” của Trần Nhân Trung thường xuyên nhắc nhở các triều đại về chính sách đối với kẻ sĩ, và luôn luôn minh chứng lời nói bất hủ của ông về sự thịnh suy của đất nước gắn liền với sự thịnh suy của hiền tài.
Xác định được tầm quan trọng của việc học tập cũng như sự quan tâm của toàn xã hội đến học tập và sự trọng dụng đối với những người tài đức, mỗi chúng ta cần cố gắng học tập, rèn luyện mình trở thành những con người có ích cho xã hội, làm cho “nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao”.
Hiền tài là nguyên khí quốc gia – Mẫu 4
Thân Nhân Trung (1418 – 1499) tên chữ là Hậu Phủ, người xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng, nay thuộc tỉnh Bắc Giang, ông đỗ tiến sĩ năm 1469, từng là thành viên trong Hội Tao đàn do vua Lê Thánh Tông sáng lập. Là người có tài văn chương nên năm 1484, ông đã được nhà vua tin cậy giao cho soạn thảo Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba. Văn bản này giữ vai trò quan trọng như lời Tựa chung cho cả 82 tấm bia tiến sĩ ở nhà bia Văn Miếu, Hà Nội. Bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia trích từ bài kí này, trong đó có câu: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.
Vấn đề tác giả nêu ra trong đoạn trích là khẳng định vai trò, vị trí của các bậc hiền tài đối với đất nước. Đây là một nhận định sáng suốt và đúng đắn, được chiêm nghiệm và rút ra từ thực tế thăng trầm của lịch sử nước ta, chứng tỏ người viết có tầm nhìn xa trông rộng.
Vậy hiền tài là gì và tại sao hiền tài lại là nguyên khí của quốc gia?
Thế nào là hiền tài? Hiểu theo nghĩa hiển ngôn của từng từ thì hiền là ăn ở tốt với mọi người (phải đạo), hết lòng làm tròn bổn phận của mình đối với người khác; tài là khả năng đặc biệt làm một việc nào đó. Hiểu rộng ra theo nghĩa hàm ngôn thì hiền tài là người tài cao, học rộng và có đạo đức, một lòng một dạ vì lợi ích của nhân dân, Tổ quốc.
Thế nào là nguyên khí? Nguyên khí là khí ban đầu tạo ra sự sống của vạn vật. Hiểu rộng ra, nguyên khí là yếu tố quyết định sự sống còn và phát triển của xã hội, đất nước.
Vậy tại sao hiền tài là nguyên khí của quốc gia?
Hiền tài là sự kết tụ tinh hoa của đất trời, của khí thiêng sông núi, của truyền thống dân tộc. Người xưa đã nói: Địa linh sinh nhân kiệt, nên hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
Những người được coi là hiền tài có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hưng vong của một triều đại nói riêng và của quốc gia nói chung. Có thể lấy rất nhiều ví dụ trong lịch sử nước ta để chứng minh cho điều đó như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Giang Văn Minh, Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ… ở những thế kỉ trước và nhân vật nổi tiếng của thế kỉ XX là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – người đã lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến, giành lại chủ quyền độc lập, tự do cho đất nước và khẳng định tên tuổi Việt Nam trước toàn thế giới.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có một số nhân sĩ, trí thức được đào tạo ở nước ngoài vì cảm phục đức hi sinh cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh nên đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, trở về nước trực tiếp đóng góp tài trí của mình cho sự nghiệp kháng chiến. Kĩ sư Trần Đại Nghĩa, người chế tạo ra nhiều thứ vũ khí lợi hại cho kháng chiến. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn Ngữ… đã bỏ ra bao công sức nghiên cứu, tìm tòi và chế tạo ra những thứ thuốc kháng sinh quý giá để cứu chữa cho thương binh, bộ đội trên chiến trường. Nhà nông học Lương Định Của suốt đời trăn trở, nghiên cứu cải tạo ra những giống lúa mới có khả năng chống sâu rầy và cho năng suất cao để cải thiện cuộc sống nông dân, tăng nguồn lương thực tiếp tế cho chiến trường miền Nam đánh Mĩ… Đó là gương sáng của những bậc hiền tài một lòng một dạ vì quyền lợi chung của nhân dân và Tổ quốc.
Như đã nói ở trên, hiền tài có vai trò quan trọng đối với sự hưng vong của đất nước. Nhưng hiền tài không phải tự nhiên mà có. Ngoài thiên khiếu bẩm sinh, những người tài phải được phát hiện và giáo dục theo một quy củ nghiêm túc để họ nhận thức đúng đắn về mục đích học tập là rèn luyện đạo lí làm người, để bồi dưỡng lòng tương thân, tương ái và hiểu rõ trách nhiệm của bản thân đối với xã hội. Ngày xưa, theo quan niệm của Khổng giáo thì việc giáo dục con người phải lấy đức làm gốc (đức giả bản dã), còn tài là phần ngọn (tài giả mạt dã). Nguyễn Trãi cũng đặt đức lên trên tài: Tài thì kém đức một vài phân. Đại thi hào Nguyễn Du cũng khẳng định: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Quan niệm đúng đắn ấy còn giữ nguyên giá trị cho đến tận ngày nay. Bác Hồ trong một lần nói chuyện với học sinh đã nhấn mạnh: Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.
Hiền tài trước hết phải là người có đức. Trong chế độ phong kiến trước đây thì đức chính là lòng trung quân, ái quốc. Mọi suy nghĩ và hành động của các bậc hiền tài đều không ngoài bốn chữ đó. Những mưu cầu, toan tính vun vén cho lợi ích cá nhân không thể tác động và làm ảnh hưởng đến lí tưởng cao quý giúp vua, giúp nước của họ. Xét theo chuẩn mực đạo đức Nho giáo thì họ xứng đáng là những bậc chính nhân quân tử: phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất (giàu sang không làm thay đổi, nghèo khó không thể chuyển lay, bạo lực không thể khuất phục). Hiền tài là những tấm gương quả cảm, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên đời Trần được triều đình cử đi sứ phương Bắc đã tỏ rõ cho vua quan nhà Minh biết chí khí hiên ngang của người quân tử bằng tài ứng đối hùng biện của mình. Giang Văn Minh sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ danh dự của vua Nam và quốc thể nước Nam, xứng đáng là sứ thần Đại Việt. Không thể kể hết tên tuổi các hiền tài của nước Nam, đúng như Nguyễn Trãi từng viết: Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có (Bình Ngô đại cáo).
Tuy nhiên, lịch sử mấy nghìn năm của đất nước ta có nhiều giai đoạn biến đổi thăng trầm, về đại cục, lịch sử luôn phát triển theo hướng đi lên; nhưng có lúc lịch sử gặp giai đoạn suy thoái, bi thương. Vận mệnh dân tộc, số phận đất nước đặt lên vai hiền tài, nhưng vì nhiều lí do, họ đã không đảm đương được trọng trách mà quốc gia giao phó. An Dương Vương oai hùng với thành Cổ Loa kiên cố và nỏ thần hiệu nghiệm, nhưng vì chủ quan khinh địch nên đã lâm vào cảnh nước mất nhà tan. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống chỉ vì ham muốn lợi danh mà hèn nhát cam tâm làm tay sai cho quân xâm lược phương Bắc. Đó là lúc nguyên khí suy, thế nước yếu rồi xuống thấp.
Điều quan trọng nhất là hiền tài thì phải thực sự có tài. Có tài kinh bang tế thế thì mới nghĩ ra được những kế sách sáng suốt giúp vua và triều đình cai trị đất nước. Tài năng quân sự lỗi lạc của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã góp phần to lớn vào chiến công lừng lẫy của quân dân nhà Trần ba lần đánh thắng quân xâm lược Mông – Nguyên. Tài năng quân sự, ngoại giao xuất sắc của Nguyễn Trãi khiến ông trở thành vị quân sư số một của Lê Lợi, có vai trò quyết định chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quét sạch mười vạn giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta.
Một gương sáng hiền tài đã trở thành thần tượng không chỉ trong phạm vi đất nước mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tên tuổi của ông gắn liền với hai cuộc kháng chiến đau thương và oanh liệt của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược, ông đã làm vẻ vang cho lịch sử và truyền thống bất khuất, hào hùng của đất nước. Nhắc đến ông, nhân dân ta và bè bạn năm châu yêu mến, tự hào; còn kẻ bại trận cũng phải nghiêng mình kính phục.
Xưa nay, các triều đại phong kiến đều quan tâm đến việc mở trường học và tổ chức thi cử để tuyển chọn nhân tài giúp nước.
Sau khi quét sạch quân xâm lược nhà Minh ra khỏi bờ cõi, mở ra nền thái bình muôn thuở, vua Lê Thái Tổ đã tỏ ra đặc biệt quan tâm đến vấn đề mở rộng và nâng cao nền giáo dục của nước nhà, trong đó có việc phát hiện và đào tạo nhân tài nhằm phục vụ cho mục đích chấn hưng đất nước. Các triều đại trước, việc tuyển chọn người ra làm quan chủ yếu thông qua con đường tiến cử, nhiệm cử…, nhưng đến thời Lê thì chủ yếu là thông qua khoa cử để chọn người tài giỏi giúp vua trị nước. Vua Lê Thánh Tông viết trong chiếu dụ như sau: Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học. Phải chọn người có học thì thi cử là đầu. Nước ta, từ khi trải qua binh lửa, nhân tài ít như lá mùa thu, tuấn sĩ thưa như sao buổi sáng. Thái Tổ ta mới dựng nước đã lập ngay trường học, nhưng lúc mới mở mang chưa đặt khoa thi. Ta noi theo chỉ tiên đế, muốn cầu được hiền tài để thỏa lòng mong đợi. Trong sắc dụ của mình, vua Lê Hiển Tông cũng khẳng định: Các bậc thánh đế minh vương, chẳng ai không lấy việc gây dựng người tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc đầu tiên.
Người có tài, có đức giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay như thế nào?
Nếu hiểu theo nghĩa hiền tài là người tốt, có khả năng đặc biệt làm một việc nào đó thì hiền tài hiện nay trong lĩnh vực nào cũng có. Đó là những người vượt khó để thành đạt; là những doanh nhân có tâm, có tài, sản xuất ra những hàng hoá chất lượng cao đem lại lợi ích to lớn cho nhân dân, đất nước; là những nhà khoa học có nhiều công trình hữu ích, thiết thực; là những vị lãnh đạo có tư tưởng đổi mới, hoạch định các chính sách phù hợp, khả thi để thúc đẩy nền kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội ngày càng phát triển. Tất cả hợp lại tạo nên nguyên khí quốc gia.
Hiền tài không phải tự nhiên mà có. Ngoài năng khiếu bẩm sinh mang tính chất truyền thống của gia đình, dòng họ, quê hương… thì người tài phải được phát hiện, giáo dục, đào tạo một cách nghiêm túc và bài bản để thực sự trở thành hiền tài của đất nước.
Nhân tài của một đất nước không nhiều nhưng cũng không quá hiếm hoi. Để có được hiền tài, Nhà nước phải có chính sách đào tạo và sử dụng đúng đắn cùng chính sách đãi ngộ trân trọng, hợp lí. Tạo điều kiện thuận lợi để hiền tài phát triển tài năng và cống hiến có hiệu quả nhất cho sự nghiệp phát triển đất nước giàu mạnh.
Nhận định của Thân Nhân Trung đúng với mọi quốc gia và mọi thời đại. Học sinh chúng ta cần phải rèn luyện, phấn đấu không ngừng để trở thành hiền tài, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, để có thể sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong ước.
Bài viết số 1 lớp 11 đề 3
Dàn ý nghị luận Học đi đôi với hành
a) Mở bài
– Nêu vấn đề nghị luận:
- “Học đi đôi với hành” là một nguyên lý giáo dục quan trọng.
- Suy nghĩ về mối quan hệ giữa “học” và “hành”.
b) Thân bài
* Giải thích thế nào là học đi đôi với hành?
- Học là tiếp thu tri thức về phương châm lý thuyết, lý luận.
- Hành là sự vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn đời sống và lao động sản xuất.
=> Học “đi đôi” kết hợp với hành cho nhận thức và hành động của con người có tính thống nhất, bổ sung cho nhau, làm cho cái ta học được trở nên sâu sắc và vững chắc, hành động của ta có cơ sở khoa học, sẽ trôi chảy, dễ dàng, có thể logic và sáng tạo, để đạt tới kết quả cao.
* Vì sao học phải đi đôi với hành ?
- Học đi đôi với hành là rất cần thiết và quan trọng với tất cả mọi người.
- Hành mà không đi đôi với học thường có kết quả thấp hoặc thất bại.
- Học lí thuyết mà không thực hành thì sẽ không hiểu được vấn đề, gây hậu quả lãng phí. Còn hành mà không học lí thuyết thì sẽ không đạt được kết quả cao.
* Lợi ích của “Học đi đôi với hành”
- Hiệu quả trong học tập, giúp ta nắm chắc kiến thức hơn, nhớ lâu hơn và hiểu sâu hơn những điều được học.
- Học đi đôi với hành sẽ soi sáng cho ta nhiều điều cụ thể và sinh động.
- Đào tạo nguồn nhân lực hiệu quả.
- Có nhiều cơ hội trong cuộc sống mà ta có thể vận dụng để hành những điều học được.
- Việc học sẽ không bị nhàm chán.
* Bài học nhận thức và hành động
– “Học đi đôi với hành” vừa là nguyên lý giáo dục vừa là phương pháp học tập hiệu quả.
– Để thực hiện nguyên lý này, mỗi người phải xác định cho mình mục đích học tập đúng đắn.
– UNESCO (Tổ chức Văn hóa Khoa học Giáo dục thuộc Liên hợp quốc) đã đề xướng “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
=> Học trở thành nhu cầu tự thân và chúng ta sẽ tìm mọi cách, mọi biện pháp, mọi cơ hội để vận dụng vào cuộc sống.
– Với động cơ, mục đích học tập đúng đắn, chúng ta mới có thể say mê học tập, nghiêm túc, chăm chỉ để tiếp thu đầy đủ nội dung, làm bài tập để củng cố, mở rộng bài học. Trên cơ sở nắm chắc bài học, chúng ta sẽ có điều kiện vận dụng vào thực tiễn.
– Học không chỉ ở trường lớp mà cả tự học, học bạn, học người thân, học đồng môn, đồng nghiệp. Hành không chỉ ở trong phòng thí nghiệm mà phải vận dụng vào cuộc sống hàng ngày, trong ăn ở, đi lại, giao tiếp và làm việc.
* Phản đề
– Phê phán lối học sai lầm:
- Học chuộng hình thức
- Học cầu danh lợi
- Học theo xu hướng
- Học vì ép buộc.
c) Kết bài
- Khẳng định học đi đôi với hành là một phương pháp học hiệu quả
- Liên hệ bản thân: Bản thân em đã, đang và sẽ làm gì để phát huy hiệu quả của phương châm “Học đi đôi với hành” ?
Nghị luận học đi đôi với hành – Mẫu 1
Bàn về vấn đề học và hành có rất nhiều ý kiến khác nhau. Mỗi một ý kiến đều đúc kết một kinh nghiệm học tập khác nhau. Tuy nhiên đến nay được nhiều người ủng hộ nhất vẫn là học đi đôi với hành. Nó không chỉ có ý nghĩa trong một thời điểm mà còn có giá trị mãi về sau này.
Và để hiểu được trọn vẹn ý nghĩa câu nói này thì đầu tiên bạn nên hiểu học và hành là gì? Học là quá trình tiếp thu kiến thức, thu thập những tri thức từ trong sách vở và trong cuộc sống. Nó giúp con người mở mang tầm hiểu biết và trở thành người có ích cho xã hội. Còn hành ở đây có nghĩa là thực hành, hành động. Vận dụng những điều đã biết trong sách vở vào thực tiễn thành hành động mang lại của cải vật chất cho xã hội. Trên thực tế hai vấn đề này có liên hệ mật thiết với nhau và bổ trợ nhau cùng phát triển.
Vậy tại sao học với hành phải đi đôi với nhau? Trên thực tế học là quá trình thu thập những kiến thức cơ bản của nhân loại trong mấy ngàn năm lịch sử thông qua sách vở, cách truyền dạy của thầy cô, bạn bè… Mục đích của nó là làm giàu nguồn tri thức của con người nâng cao trình độ hiểu biết để có thể làm chủ cuộc đời mình. Còn hành chính là việc bạn áp dụng nó vào thực tế cuộc sống để củng cố thêm lí thuyết. Trên thực tế dù bạn có học lí thuyết cao siêu đến đây mà không vận dụng được vào thực tế thì mớ lí thuyết đó cũng chỉ là mớ lí thuyết suông mà thôi. Thế còn nếu học mà không có hành thì cũng chỉ là vô ích. Hành vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập để giúp việc học tập thêm vững chắc và khắc sâu.
Học đi đôi với hành là một phương pháp vô cùng đúng đắn và khoa học. Thông qua rất nhiều hình thức khác nhau ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Người học sẽ thông qua việc thực hành để củng cố kiến thức và áp dụng kiến thức đó kiểm nghiệm trong thực tế. Và để cho nó hiệu quả thì bạn nên tìm cách cân bằng giữa lí thuyết và thực tế. Việc học không chỉ trong phạm vi nhà trường mà còn phải đem nó vào ứng dụng trong cuộc sống xã hội.
Mối quan hệ học tập và thực hành được đúc kết trên kinh nghiệm lịch sử nhân loại có mối quan hệ hữu cơ khăng khít với nhau tuyệt đối không được xem nhẹ bên nào. Muốn có hiệu quả tốt thì bạn phải được đào tạo bài bản nghiêm túc theo từng chuyên ngành. Nắm vững lí thuyết sẽ giúp bạn tránh những sai lầm đáng tiếc. Lí thuyết vạch đường cho thực hành còn thực hành bổ sung và hoàn thiện cho lí thuyết thêm vững chắc.
Nếu như bạn chỉ biết thực hành mà bỏ qua việc học thì nó sẽ không thể thông suốt và không thể trôi chảy được. Bạn sẽ như người đi trong đêm tối nếu như không được bổ trợ kiến thức. Nếu bạn chỉ làm việc theo thói quen và kinh nghiệm thì kết quả sẽ không bao giờ khả quan được. Thậm chí nó sẽ khiến bạn thụt lùi so với nhân loại.
Hiện nay rất nhiều học sinh bị sai lầm trong cách học dẫn đến hiệu quả không cao. Việc nắm quá vững kiến thức nhưng lại không thực hành sẽ khiến cho kết quả học tập không được đảm bảo. Vì thế nên tốt nhất bạn nên kết hợp nhuần nhuyễn hai thứ này tránh việc rơi vào lí thuyết sách vở máy móc.
Học và hành là hai vấn đề rất được quan tâm trong cuộc sống. Nó cần phải được củng cố và bổ trợ nhau. Mỗi con người trong bất kì hoàn cảnh nào cũng phải ghi nhớ hai vấn đề này để giúp bản thân trở nên hoàn thiện hơn.
Nghị luận học đi đôi với hành – Mẫu 2
Ai cũng biết học tập là công việc quan trọng theo suốt cuộc đời của mỗi con người. Nhưng không phải ai cũng biết cần học như thế nào để đem lại kết quả cao. Bằng chứng là kết quả học tập của mỗi người lại ở một mức khác nhau, thậm chí cùng một môi trường học tập, cùng một người dạy dỗ song kết quả lại trái ngược nhau. Tuy nhiên, tất cả những người thành công trong học tập đều tâm đắc với phương pháp học tập hiệu quả đã được kiểm chứng từ ngàn đời nay : phương pháp học đi đôi với hành.
Học đi đôi với hành là gì? “Học” là một quá trình mà ở đó chúng ta tiếp thu kiến thức của nhân loại dưới sự hướng dẫn của thầy cô. Học cũng có thể là một quá trình tự thân vận động. Quá trình ấy được gọi là quá trình tự học: học trong sách vở, tài liệu hay học trong cuộc sống. Nội dung học là các kiến thức nhân loại được chọn lọc (được phân loại thành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội) cùng với đó là làm phong phú những hiểu biết của con người, giúp phát triển vẹn toàn nhân cách và đặc biệt việc học trang bị cho mỗi chúng ta những kiến thức, những kĩ năng, kĩ xão nghề nghiệp để từ đó tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội đem đến lợi ích cho bản thân, cho gia đình và cho đất nước. Như vậy, “học” ở đây được hiểu là gắn với vấn đề lí thuyết. Người học giỏi thường được hiểu là người nắm được nhiều nội dung lí thuyết.
Bên cạnh đó, “Hành” là thực hành, là quá trình vận dụng kiến thức vào cuộc sống, là đem những cái đã học được vào thực tế để kiểm tra độ đúng sai hay làm sinh động nó. “Hành” có nhiều cấp độ: Bắt chước người khác làm, sáng tạo những cách thức hoạt động mới,…Điều đó còn tùy thuộc vào tri thức mà bạn học được phong phú sinh động và sâu sắc đến đâu. Những người nông dân ra đồng làm ruộng chắc chắn sẽ càng khác hơn nữa khi ta so sánh với công việc của một nhà văn,…
Trước hết, có thể khẳng định: giữa học và hành, học có tính chất quyết định. Vốn tinh hoa tri thức nhân loại ta học trong hơn chục năm là có thể coi như “ hòm hòm” về cơ bản. Nhưng cả đời người không thể thực hiện lại một phần nhỏ những gì cổ nhân từng làm. Bởi vậy, phải có đầy đủ lí thuyết trước mới đảm bảo cho thành công của công việc. Đó là lí do vì sao ta cần học giỏi, nắm được những kiến thức cần thiết.
Tuy nhiên, không thể tuyệt đối hóa vai trò của học bỏi mục đích cuối cùng của mọi nỗ lực học tập là nhằm giúp mỗi người sống tốt trong xã hội con người. Vì vậy, học cần đi đôi với hành. Chúng là hai mặt thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau. Bởi như đã biết, nếu chỉ biết học lý thuyết mà không hề biết đến thực hành thì những lý thuyết ta học cũng chỉ là những tri thức chết, chúng không có tác dụng đối với đời sống. Đó là trường hợp nhiều học sinh Việt Nam đi thi học sinh giỏi quốc tế các môn khoa học tự nhiên. Chúng ta làm lí thuyết rất xuất sắc thậm chí đạt điểm tuyệt đối. NHưng khi thực hành, trong khi bạn bè các nước làm rất “ ngon lành” chúng ta loay hoay hàng giờ, thậm chí phải bỏ cuộc. Đó cũng là trường hợp nhiều học sinh, sinh viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng hoàn toàn không có kĩ năng sống thực tế.
Họ không biết ứng xử sao cho hợp hoàn cảnh giao tiếp, không nấu được một bữa cơm, không viết được nổi một lá đơn xin việc,…học như vậy chỉ phí phạm thời gian, công sức tiền bạc bởi thực tế học như vậy để làm gì nếu không thể ứng dụng vào đời sống? Chúng ta không chỉ học lý thuyết mà còn phải biết áp dụng những lý thuyết đó phục vụ thực tế. Mặt khác, có lúc những lý thuyết chúng ta đã được học khi đưa vào thực hành lại gặp phải rất nhiều khó khăn. Do đó, chúng ta phải biết kết hợp vừa học lý thuyết, và thực hành nhuần nhuyễn những điều đã học. Có như vậy, thì những kiến thức chúng ta được học sẽ trở nên sâu hơn, giúp chúng ta nắm vững nguồn tri thức. Nếu chỉ học mà không thực hành thì tất cả cũng chỉ là lý thuyết. Mọi lý thuyết chỉ là màu xám, còn cây đời mãi mãi xanh tươi”. Chính vì vậy, học phải đi liền với thực hành để có thể đem hết những gì đã học cống hiến phục vụ cho đất nước.
Nghị luận học đi đôi với hành – Mẫu 3
Trong xã hội hiện nay, mỗi con người muốn tài giỏi, làm người có ích cho xã hội thì cần phải trang bị cho bản thân mình nhiều kĩ năng. Muốn vậy, mỗi cá nhân phải có ý thức trong việc học tập điều mới, tìm các phương pháp học đúng đắn. Trong các phương pháp đó, “học đi đôi với hành” là một trong những phương pháp hiệu quả nhất. Học với hành như hai anh em vậy, cần phải luôn kề vai, sát cánh, hỗ trợ lẫn nhau thì mới dẫn đến kết quả tốt được.
Trước tiên, ta cần tìm hiểu rõ các khái niệm. Học chỉ một hoạt động tiếp thu kiến thức đã được đúc kết từ kinh nghiệm, từ thực tiễn, chân lí. Có nhiều cách để cho chúng ta học, học từ thầy cô, bạn bè, sách vở, đặc biệt từ thực tế cuộc sống. Học giúp chúng ta nâng cao sự hiểu biết, cách làm chủ được bản thân, tìm ra được mục đích của đời mình. Còn “hành” chỉ sự hành động làm trực tiếp, thực hành dựa trên những kiến thức mình đã học tập vào thực tế. Học và hành có sự gắn kết với nhau, bổ sung cho nhau, để đạt được “năng suất” cao nhất.
Phương châm “học đi đôi với hành” là hoàn toàn đúng đắn. Một trong hai việc trên đều rất quan trọng. Từ thời xa xưa, cha ông ta đã đề cao việc học tập, bởi có học, ta mới nhận biết được đâu là đúng sai phải trái, thế nào là tốt xấu, từ đó giúp ta cách ứng xử giao tiếp hàng ngày cũng như trong công việc làm thế nào để đạt hiệu quả cao. Nhưng học không thì không đủ, nó chỉ là lí thuyết suông nếu ta không chịu thực hành nó. Ví dụ như, khi ta học về máy biến áp, mà chỉ học tên các bộ phận, cách hoạt động của nó trên sách vở thì nó vẫn chưa thể cung cấp hết được cách hoạt động thực tế của nó ra sao. Ngược lại, hành không mà không có học thực rất khó. Nếu cứ bắt tay vào làm mà không biết bắt đầu từ đâu, thế nào, rồi nó có đúng hay là sai thì làm gì cũng rất khó và tốn rất nhiều thời gian, không đạt được năng suất, hiệu quả cao trong công việc. Vì vậy, học phải đi đôi với hành.
Từ môi trường sư phạm trong nhà trường cho đến ngoài đời thực tiễn trong xã hội, học và hành phải luôn kèm theo với nhau. Học những được điều tốt, cách xử sự tốt, áp dụng vào thực tế sao cho đúng. Thật đáng tiếc hiện nay, nhiều học sinh được chỉ dạy trong trường những lời hay ý đẹp, nhưng khi ra ngoài xã hội thì có những cư xử thiếu phải phép, nói những lời văng tục, chửi bậy. Vậy điều quan trọng là cần phải áp dụng lí thuyết vào thực tế cho đúng đắn. Như đơn giản việc học ngoại ngữ, nếu bạn chỉ ngồi đó làm sách ngữ pháp thì bạn mãi mãi không thể tốt trong việc nói tiếng anh được, bạn phải ra ngoài nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ ấy, luyện âm cho tốt. Có thể nói Bác Hồ là một tấm gương sáng cho chúng ta về phương pháp này, Bác đã có thể nói thành thạo nhiều thứ tiếng nhờ vào việc học tập chăm chỉ và thực hành chúng bằng cách nói và luyện viết.
Là học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường, mỗi chúng ta cần phải ý thức được việc học làm sao cho đạt kết quả cao nhất mà không nhàm chán. Luôn chủ động, sáng tạo trong các cách học để tiếp thu bài học một cách tốt hơn, ghi nhớ hơn.
Học đi đôi với hành có ý nghĩa thực tiễn đối với tất cả các ngành nghề, tất cả các lĩnh vực của xã hội. Thời đại phát triển hiện đại như hiện nay, thì phương pháp “học đi đôi với hành” là con đường đơn giản nhất để đạt được những gì mình mong muốn, giúp một phần nhỏ của bản thân cho đất nước và xã hội.
Nghị luận học đi đôi với hành – Mẫu 4
Học hành là việc cả đời người. Nhưng không phải ai cũng biết phương pháp học đúng đắn để đem lại kết quả cao. Bằng chứng là kết quả học tập của mỗi người lại ở một mức khác nhau, thậm chí cùng một môi trường học tập, cùng một người dạy dỗ song kết quả lại hoàn toàn trái ngược nhau. Tuy nhiên, từ xưa đến nay tất cả những người thành công trong học tập đều tâm đắc với phương pháp học tập hiệu quả đã được kiểm chứng từ ngàn đời nay: phương pháp học đi đôi với hành.
Học là sự tích lũy vốn kiến thức của mỗi con người. Con người có học là động vật bậc cao biết suy nghĩ, có nhận thức, có sự hiểu biết. Hành là thực hành, thực hiện, vận dụng những lí thuyết đã được học bằng việc làm thực tế. Học đi đôi với hành không phải là vừa học vừa làm. Cho giả dụ, nếu bạn vừa ngồi ăn cơm hay rửa chén vừa học bài thì thử hỏi bạn có thuộc nổi bài hay không? Sự kết hợp ta nói đến ở đây là việc vận dụng những lí thuyết đã học nhằm hiểu rõ hơn, nắm vững những vấn đề mà phần lí thuyết đó đề cập đến để có thể vận dụng chúng một nhanh chóng, chính xác trong thực tế sau này. Như khi ta học môn Hóa học ở trường, ta phải kết hợp với việc làm thí nghiệm để nắm vững những tính chất hóa học của các chất hóa học, hay học môn tiếng Anh, ta phải luyện nói với người nước ngoài thật nhiều để nâng cao kĩ năng nói. Có thể nói rằng, học đi đôi với hành là phương pháp học tối ưu nhất cho mọi môn học.
Bên cạnh đó, “Hành” là thực hành, là quá trình vận dụng kiến thức vào thực tế, là đem những kiến thức đã học được vào thực tế để kiểm tra độ đúng sai hay làm sinh động nó để dễ nhớ. “Hành” là đem những thí nghiệm vật lí đi làm để kiểm nghiệm, là đem công thức món ăn đã học trên mạng ra làm thử ra thành phẩm, là đi thực tế để trải nghiệm những kiến thức địa lí chỉ có trong sách. Trước hết, có thể khẳng định: giữa học và hành, học có tính chất quyết định đến việc có được kiến thức, nhưng “hành” mới là cái cốt lõi quyết định việc kiến thức ấy có đi theo chúng ta suốt được không. Vốn tinh hoa tri thức nhân loại ta học trong hơn chục năm là có thể coi như cơ bản ta đã nắm được. Nhưng cả đời người không thể quên được những kiến thức mà ta chính bản thân mình trải qua.
Vậy tại sao lại cần “Học đi đôi với hành”? Vì chúng là hai mặt bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Ta không thể đi thực hành nếu như không học qua lí thuyết, ta cũng không thể nắm vững nếu như không thông qua thực hành để kiểm nghiệm. Vì vậy, học đi đôi với hành là phương châm tối ưu và ưu Việt nhất.
Ai cũng biết rằng, nếu chỉ biết học lí thuyết mà không hề biết đến thực hành thì những lí thuyết ta học cũng chỉ là những tri thức chết, chúng không có tác dụng đối với đời sống. Đó là trường hợp nhiều học sinh Việt Nam đi thi học sinh giỏi quốc tế các môn khoa học tự nhiên. Chúng ta làm lí thuyết rất xuất sắc, không thua kém gì nước bạn, thậm chí đạt điểm tuyệt đối. Nhưng khi thực hành, trong khi bạn bè các nước làm rất tốt thì chúng ta loay hoay hàng giờ, thậm chí phải bỏ cuộc giữa chừng. Đó cũng là trường hợp nhiều học sinh, sinh viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng hoàn toàn không có kĩ năng sống thực tế cơ bản. Họ không biết ứng xử sao cho hợp hoàn cảnh giao tiếp, không nấu được một bữa cơm, không tự viết được một CV xin việc tử tế,… học như vậy chỉ phí phạm thời gian, công sức tiền bạc bởi thực tế học như vậy để làm gì nếu không thể ứng dụng vào đời sống? Như vậy, chúng ta không chỉ học lí thuyết mà còn phải biết áp dụng những lí thuyết đó phục vụ thực tế để kiến thức ấy phục vụ cho cuộc sống chúng ta.
Mặt khác, có lúc những lí thuyết chúng ta đã được học khi đưa vào thực hành lại gặp phải rất nhiều khó khăn. Vì vậy, chúng ta phải biết kết hợp vừa học lí thuyết, và thực hành nhuần nhuyễn những điều đã học. Có như vậy, thì những kiến thức chúng ta được học sẽ trở nên sâu hơn, chuyên hơn giúp chúng ta nắm vững nguồn tri thức. Nếu chỉ học mà không thực hành thì tất cả cũng chỉ là lí thuyết xa vời thực tế. Chính vì vậy, học phải đi đôi với hành, có như vậy ta mới có thể đem hết những gì đã học cống hiến phục vụ cho xã hội.
Khổng Tử là một bậc thầy về giáo dục, trong quan niệm về giáo dục, ông luôn đề cao việc học phải đi đôi với hành, và đúng như vậy, Khổng Tử đã trở thành một đức thánh hiền của Trung Quốc. Bác Hồ cũng đã từng khẳng định: Học để hành, có nghĩa là học để cho tốt. Thực tế cho thấy có học có hơn. Ông cha ta ngày xưa đã nói: Bất học, bất tri lý có nghĩa là không học thì không biết đâu là phải. Mục đích cuối cùng của sự học là nhằm phục vụ cho mọi công việc đạt hiệu quả cao hơn. Nếu học được lí thuyết dù cao siêu đến đâu chăng nữa mà không đem ra vận dụng vào thực tế thì việc học ấy chỉ tốn thời gian, công sức, tiền bạc mà thôi.
“Học đi đôi với hành” là lời của người xưa đúc kết mãi mãi là bài học lớn của hôm nay và mai sau dành cho những ai thực sự cầu tiến bộ. Học chỉ khi đi đôi với hành mới có thể phát huy hết những kiến thức đã học. Thực hành cũng phải thông qua lí thuyết để nắm vững một cách chính xác.
Nghị luận học đi đôi với hành – Mẫu 5
Người xưa đã dạy lí thuyết không bằng thực hành giỏi. Vấn đề này luôn đúng trong mọi thời đại và được đúc kết trong câu nói: “Học đi đôi với hành”. “Học” là hoạt động tiếp thu những kiến thức cơ bản của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử. “Hành”là quá trình vận dụng những kiến thức tiếp thu được trong quá trình học vào thực tế và công việc hàng ngày.
“Học để hành” có nghĩa là học để làm cho tốt mọi nhiệm vụ được giao, học ở đây không chỉ là học trong sách vở mà còn phải học trong đời sống.
“Học với hành” giúp ta vừa chuyên sâu kiến thức lại vừa thông thạo, hoàn thiện những kĩ năng làm việc và Là học sinh chúng ta phải có ý thức đúng đắn trong việc học và hành, phải có thái độ nghiêm túc, học không đi với mục đích cầu danh lợi mà phải biết vận dụng sáng tạo vào thực hành. Chỉ có như thế thì hiệu quả học tập mới được nâng cao.
Nghị luận học đi đôi với hành – Mẫu 6
“Trăm hay không bằng tay quen”. Người lao động xưa đã dạy lí thuyết hay không bằng thực hành giỏi. Vấn đề này luôn đúng trong mọi thời đại và được đúc kết trong câu nói: “Học đi đôi với hành”. “Học” là quá trình tiếp thu kiến thức được tích lũy trong sách vở, là trau dồi tri thức, mở mang trí tuệ, không để tụt lùi, lạc hậu.
“Hành” là ứng dụng lí thuyết đã học vào thực tiễn đời sống. Trong thời đại của khoa học phát triển như vũ bão, việc “học đi đôi với hành” càng được đạt ra một cách nghiêm túc. Học ở đây không chỉ là học trong sách vở, bó hẹp trong phạm vi nhà trường mà còn phải học trong đời sống. Ở lứa tuổi nào cũng phải không ngừng học tập, học mọi lúc mọi nơi. “Học không hành” là lối học hình thức với mục đích là hòng cầu danh lợi. Đó là lối học định hướng đến những mục đích tầm thường.
Bác Hồ từng khuyên thiếu niên: “Học tập tốt, lao động tốt” cũng là muốn gắn học với hành. Nếu học những điều nhảm nhí, vô bổ thì chẳng đem đến một ý nghĩa gì cho cuộc sống này. Những người biết kết hợp giữa học với hành sẽ đóng góp tài năng và đạo đức của mình để xây dựng, giữ gìn và phát triển đất nước. Qua đó ta thấy học với hành sẽ tạo nên những tri thức chân chính, tạo nên sự hòa hợp giữa nhân cách và chuyên môn.
Thật đáng trách những học sinh được đi học chỉ lo quậy phá, đua đòi trong khi còn rất nhiều viên ngọc sáng ngoài kia không được mài giũa mà mỗi ngày mỗi tối đi. “Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”. Là học sinh chúng ta phải có ý thức đúng đắn trong việc học và hành, phải có thái độ nghiêm túc, phải biết vận dụng sáng tạo vào thực hành. Có như vậy hiệu quả học tập mới được nâng cao.
Nghị luận học đi đôi với hành – Mẫu 7
Học tập vốn là một quá trình lâu dài và nhiều gian nan, vất vả. Bên cạnh sự chăm chỉ, cần cù, có một phương pháp học tập đúng đắn cũng là yếu tố giúp chúng ta đi đến thành công. Bàn về phương pháp học, mỗi người lại có một phương pháp khác nhau, phương pháp nào cũng đúc kết những kinh nghiệm quý báu hỗ trợ chúng ta trên con đường chiếm lĩnh tri thức. Trong số đó, học đi đôi với hành là phương pháp đã có từ lâu nhưng lúc nào cũng đem lại kết quả cao.
Trước hết chúng ta cần hiểu: học và hành có nghĩa là gì? Học là hoạt động tiếp thu tri thức đã có từ sớm của con người. Lúc nhỏ ta học đi, học nói. Lớn hơn, ta dần dần tiếp cận với biển tri thức mênh mông của nhân loại. Chúng ta có thể học qua sự chỉ dạy của thầy cô giáo, học từ sách vở, bạn bè, học từ thực tế. Học bao giờ cũng là công việc khó khăn, vất vả để làm giàu tri thức, nâng cao hiểu biết, làm chủ bản thân và làm chủ cuộc sống. Còn hành là việc áp dụng những kiến thức học được vào thực tế, vào công việc cụ thể.
Học và hành có mối quan hệ mật thiết trong cuộc sống, luôn đi đôi với nhau. Chúng ta không thể có học mà không có hành hay ngược lại. Học là quá trình tích lũy tri thức, là nền tảng của mọi công việc, vấn đề trong cuộc sống. Có thể coi việc học như gốc rễ của một cái cây, rễ có vững chắc thì cây mới phát triển tốt, đâm cành đẻ nhánh, mạnh mẽ, cứng cáp trước sóng gió cuộc đời. Học sẽ là ngọn đèn soi sáng cho thực hành. Nhưng chỉ học thôi mà không áp dụng vào thực tế thì những kiến thức ấy sẽ trở thành vô ích, tốn công sức, tiền bạc, thời gian. Có câu nói: “Mọi lí thuyết đều là màu xám, còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi”. Thực hành sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện cho kiến thức. Nhất là trong thời đại khoa học công nghệ ngày nay, thực hành tốt là một yêu cầu quan trọng đối với người lao động.
Bác Hồ đã từng khẳng định: Lí luận phải đi đôi thực tiễn, lí luận mà không có thực tiễn chỉ là lí thuyết suông. Bác đã áp dụng sáng tạo và hiệu quả chủ nghĩa lí luận Mác- Lê nin vào thực tế đấu tranh của dân tộc ta, dẫn dắt nhân dân ta ra khỏi vũng bùn nô lệ, thoát khỏi xiềng xích của áp bức bóc lột, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. UNESCO cũng đã đề xướng phương pháp: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Vì thế, chúng ta cần phối hợp hiệu quả, nhịp nhàng giữa học và hành để đem lại hiệu quả cao nhất trong công việc, chứng minh được năng lực của bản thân và góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Một thực tế đáng buồn hiện nay là nền giáo dục nước ta còn coi trọng lí thuyết mà kém tính thực hành. Điều này làm cho nền giáo dục chưa phát triển, chưa đáp được nhu cầu của xã hội. Nguyên nhân của hiện trạng này là do học sinh chưa ý thức được cặn kẽ vai trò giữa học và hành. Mặt khác, nước ta còn nghèo nàn, chưa thể đầu tư nhiều dụng cụ, phòng thí nghiệm chất lượng cho các môn học.
Để thực hiện được phương pháp học đi đôi với hành, mỗi người học sinh cần xác định cho mình mục đích học tập đúng đắn. Có một mục đích học tập, học sinh sẽ chăm chỉ học hành, say mê tìm tòi kiến thức mới. Từ cơ sở kiến thức có sẵn, chúng ta cũng cần linh hoạt, khéo léo để áp dụng những kiến thức ấy vào thực tế, trong công việc.
Học và hành là hai phần không thể tách rời trong học tập cũng như trong bất cứ công việc nào của cuộc sống. Là người học sinh, chúng ta nên áp dụng học đi đôi với hành ngay trên ghế nhà trường, bao gồm cả kiến thức, văn hóa lẫn những kinh nghiệm từ thực tế đời sống.
…………….
Tải File để xem bài viết số 1 lớp 11
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Bài văn mẫu Lớp 11: Bài viết số 1 (Đề 1 đến đề 3) Tuyển tập 40 bài văn mẫu lớp 11 hay của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.