Nhà thơ Phạm Tiến Duật, tên thật mà cũng là bút danh, sinh ngày 14-1-1941, mất năm 2007. Ông tốt nghiệp khoa Văn, Đại học sư phạm, nhưng chưa đi dạy ngày nào. Ông nhập ngũ năm 1965 có mười bốn năm trong quân đội thêm tám năm ở Trường Sơn, đoàn vận tải Quang Trung 559. Có thể nói Trường Sơn đã tạo nên thơ Phạm Tiến Duật, và Phạm Tiến Duật cũng là người mang được nhiều nhất Trường Sơn vào thơ. Nói đến đề tài Trường Sơn đánh Mỹ, người ta không thể quên Phạm Tiến Duật và thơ Phạm Tiến Duật hay nhất cũng ở chặng Trường Sơn. Sau khi chiến tranh đã qua, tâm hồn thơ Phạm Tiến Duật vẫn chưa ra khỏi Trường Sơn. Những bài thơ ông viết vẫn còn vang ngân lắm hình bóng của Trường Sơn. Phạm Tiến Duật có giọng thơ không giống ai, và cũng khó ai bắt chước được, dù hồi đó đã thấy vài người mô phỏng. Khó vì giọng đùa đùa, tinh nghịch, tếu táo nhưng lại đụng vào những miền sâu thẳm của tình cảm con người. Giọng ấy là của một chất tâm hồn chứ không phải chỉ đơn thuần một kiểu cách chữ nghĩa. chúng mình xin giới thiệu những bài thơ hay của ông.
Bài thơ: Cái cầu
Cái cầu
Cha gửi cho con chiếc ảnh cái cầuCha vừa bắc xong qua dòng sông sâuXe lửa sắp qua, thư cha nói thế,Con cho mẹ xem – cho xem hơi lâuNhững cái cầu ơi, yêu sao yêu ghê,Nhện qua chum nước bắc cầu tơ nhỏ,Con sáo sang sông bắc cầu ngọn gió.Con kiến qua ngòi bắc cầu lá tre.Yêu cái cầu vồng khi trời nổi gióBắc giữa trời cao, vệt xanh vệt đỏ,Dưới gầm cầu vồng nhà máy mới xâyTrời sắp mưa khói trắng hơn mây.Yêu cái cầu tre bắc qua sông mángMùa gặt con đi đón mẹ bên cầu:Lúa hợp tác từng đoàn nặng gánhQua cầu tre, vàng cả dòng sâuYêu cái cầu treo lối sang bà ngoạiNhư võng trên sông ru người qua lại,Dưới cầu nhiều thuyền chở đá chở vôi;Thuyền buồm đi ngược, thuyền thoi đi xuôi.Yêu hơn, cả cái cầu ao mẹ thường đãi đỗLà cái cầu này ảnh chụp xa xa;Mẹ bảo: cầu Hàm Rồng sông MãCon cứ gọi: cái cầu của cha
5-1964
Bài thơ: CÁI CẦU (Phạm Tiến Duật)
Bài thơ: Gửi em, cô thanh niên xung phong
Gửi em, cô thanh niên xung phong
Có lẽ nào anh lại mê emMột cô gái không nhìn rõ mặtÐại đội thanh niên đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất
Người tinh nghịch là anh dễ thânBởi vì thế có em đứng gầnEm ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là “Thạch Nhọn”
Ðêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón
Em đóng cọc rào quanh hố bomCái miệng em ngoa cho bạn cười giònTiếng Hà tĩnh nghe buồn cười đáo để
Anh lặng người như trôi trong tiếng ru.
Tranh thủ có ánh sáng đèn dùAnh vội nhìn em và bạn em khắp lượtMọi người cũng tò mò nhìn anh
Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối
Em ơi em, hãy nghe anh hỏiXong đoạn đường này các em làm đâuAnh đã tìm em rất lâu, rất lâu
Cô gái ở Thạch Kim Thạch Nhọn
Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm
Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.
Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều
Những con đường như tình yêu mới mẻ
Ðất rất hồng và người rất trẻ
Nhưng chẳng thấy em, cô gái ở Thạch Nhọn Thạch Kim
Những đội làm đường hành quân trong đêm
Nào cuốc nào choòng xoong nồi xủng xoảng
Rực rỡ mặt đất bình minhHấp hối chân trời pháo sáng
Ðường trong tim anh in những dấu chân.
Chiếc võng bạc trên đường hành quân
Anh đã buộc nhiều cây xoan cây ổi
Lại đường mới và hàng nghìn cô gái
Ở đâu em tinh nghịch của anh?
Bụi mù trời mùa hanh
Nước trắng khe mùa lũÐêm rộng dài là đêm không ngủ
Em vẫn đi, đường vẫn liền đường
Cạnh giếng nước có bom từ trường
En không rửa ngủ ngày chân lấmNgày em phá nhiểu bom nổ chậmÐêm nằm mơ nói mớ vang nhà
Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa
Thương em, thương em, thương em biết mấy…
Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lạiSẽ giật mình đường mới ta xây
Ðã có độ dài hơn cả độ dài
Của đường xá đời xưa để lạiSẽ ra về bao nhiêu cô gáiMột ngày mai đường sẽ đứng chơ vơ
Ðể cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ
Trước những công trình ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Ơi em gái chưa một lần rõ mặtCó lẽ nào anh lại mê em
Từ cái đêm Thạch Nhọn Thạch Kim
Tên em đã thành tên chung anh gọi:
Em là cô thanh niên xung phong.
Bài thơ viết tại Đức Thọ năm 1968.
Nguồn: Trường Sơn – đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009
Bài thơ: Gửi em, cô thanh niên xung phong
Bài thơ: Hương trầm Đức Phổ
Hương trầm Đức Phổ
Hương trầm bay trên đất quê hươngĐặng Thuỳ Trâm nơi này em nằm lạiTôi ao ước dù trong tưởng tượng
Nâng mái tóc em mãi mãi tuổi hai mươi
Ơi! Đặng Thuỳ Trâm, Đặng Thuỳ Trâm ơiEm là trầm thơm nơi đất lành Đức PhổDù trong lửa bom rơi vẫn hiện lên rạng rỡ
Gương mặt người bác sĩ đoan trang
Đây những dòng ghi từ nơi em nằm lạiNói với bao người thắp sáng niềm tinĐể ngàn năm lớp lớp tuổi hai mươi
Mang trái tim Đặng Thuỳ Trâm và tình yêu đất nước
Từ Đức Phổ nơi dấu chân bao người đi trước
Hương Trầm bay, thơm ngát trời xanh.
Theo bài báo “Một bài thơ chưa in của nhà thơ Phạm Tiến Duật” (Báo Văn nghệ công an, ngày 19-8-2013), bài thơ này được Phạm Tiến Duật viết khoảng tháng 6-2017, trước khi biết mình bị bệnh và qua đời, được đưa cho nhạc sĩ Lê Gia Hiếu để phổ nhạc biểu diễn trong chương trình hát về Đặng Thuỳ Trâm nhân dịp tỉnh Quảng Ngãi hoàn thành một bệnh xá mang tên chị ở huyện Đức Phổ. Ca khúc cùng tên đã được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam những ngày sau đó.
Nguồn: Lê Gia Hiếu, “Một bài thơ chưa in của nhà thơ Phạm Tiến Duật”, Báo Văn nghệ công an, ngày 19-8-2013
Bài thơ: Hương trầm Đức Phổ
Bài thơ: Khúc hát thanh xuân
Khúc hát thanh xuân
Sẽ đến lúc ta trở về giàNhưng tới đó hãy hay, giờ ta còn trẻ chánBắt chước dáng cụ già không khó lắm
Đến khi già, muốn trẻ, khó làm sao
Lúc còn trẻ ra biển dễ hơn khi già ra aoLúc trẻ ta lội rừng dễ hơn là khi già thăm vườn mà mỏi gốiVới tuổi trẻ không có đêm nào gọi là đêm tối
Mưa đã là bạn ta, nắng cũng là bạn ta
Ta cày mặt đất lên trong ánh nắng chói loàTa gieo mạ theo đường chân trời cho lúa mọcCười cái cần câu, ta huơ cần trục
Lấy cân tạ ta cân và thước cây số ta đo
Nhưng ta lấy phút giây để tính thì giờTÌnh yêu sẵn trong ta đến bồn chồn biết mấyThân thể ta là toà lầu lộng lẫy
Ánh sáng chứa bên trong và tiếng hát tràn đầy
Ta nguyện là đầu rễ, ta nguyện là ngọn câyNơi ta tựa ấy thân cành vững chãiTuổi già vui cùng ta mà trẻ lại
Trẻ em nhìn sức vóc ta mà lớn lên
Nhưng có một điều xin bè bạn đừng quênLà chính khúc hát thanh xuân này các cụ già đã hátTa nhẩm lại, bỗng thấy lòng dào dạt
Nên lại hát tuổi mình ở chính bàn tay
1978
Nguồn: Báo Tiền phong, số ngày 30-1-1979
Bài thơ: Khúc hát thanh xuân
Bài thơ: Trường Sơn đông, Trường Sơn tây
Trường Sơn đông, Trường Sơn tây
Cùng mắc võng trên rừng Trường SơnHai đứa ở hai đầu xa thẳmÐường ra trận mùa này đẹp lắmTrường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây.Một dãy núi mà hai màu mâyNơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khácNhư anh với em, như Nam với BắcNhư Ðông với Tây một dải rừng liền.Trường Sơn tây anh đi, thương emBên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạoMuỗi bay rừng già cho dài tay áoRau hết rồi, em có lấy măng không.Em thương anh bên tây mùa đôngNước khe cạn bướm bay lèn đáBiết lòng anh say miền đất lạChắc em lo đường chắn bom thùAnh lên xe, trời đổ cơn mưaCái gạt nước xua tan nỗi nhớEm xuống núi nắng về rực rỡCái nhành cây gạt nỗi riêng tư.Ðông sang tây không phải đường thưÐường chuyển đạn và đường chuyển gạoÐông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áoTây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh.Từ nơi em gửi đến nơi anhNhững đoàn quân trùng trùng ra trậnNhư tình yêu nối lời vô tậnÐông Trường Sơn nối tây Trường Sơn.
Nguồn: Trường Sơn – đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009
Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây
Bài thơ: Một giờ và mười phút
Một giờ và mười phútCứ một giờ lại nghỉ mười phútTrong buổi hành quân đi bộ sáng nayAnh bỗng nhớ em lên lớp mỗi ngàyCứ một giờ lại nghỉ mười phútChẳng phải điều gì cũng lặp lại nhau đâuGiữa năm tháng hào hùng và biến độngEm của anh, quanh ta là cuộc sốngChẳng phải điều gì cũng lặp lại nhau đâuKhi em ngồi nhớ anh ngày chủ nhật thẳm sâuAnh đang lội bùn, trong rừng đầy lá mụcLúc em ngồi với học sinh là lúcAnh đứng đỉnh đèo gió thổi mênh môngGiấy bạc thuốc lá để lại đầy phòngKhi em cắt làm hoa cho học sinh đem múaLà khi anh đi những nơi bom nổNào sắt nào nhôm phơi bạc vùng rừngTấm bảng đen em vẽ những đường congTấm bảng đêm anh vạch lên đường đạnVết phấn trắng và vệt đồng cháy sángỞ hai đầu trận địa em ơiKhông trùng lặp nhau đâu giữa dài rộng cuộc đờiNhưng có điều này giấu nỗi riêng chi chútCứ một giờ lại nghỉ mười phútTiếng trống trường đã điểm chưa em?Mười phút cho chung hay mười phút cho riêngMà lúc nhớ nhau lại nghĩ về đất nướcNgày thắng giặc đang tới gần phía trướcTình yêu nào không nhắc đến ngày maiNhư hai bánh xe hiện tại với tương laiCuồn cuộn lăn đi vùn vụtRạo rực những giờ sau mười phútThời gian đi như một vệt sao dài
Nguồn: Ở hai đầu núi (thơ), Phạm Tiến Duật, NXB Tác phẩm mới, 1981
Bài thơ: Một giờ và mười phút
Bài thơ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kínhBom giật, bom rung kính vỡ đi rồiUng dung buồng lái ta ngồi,Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắngNhìn thấy con đường chạy thẳng vào timThấy sao trời và đột ngột cánh chimNhư sa, như ùa vào buồng láiKhông có kính, ừ thì có bụi,Bụi phun tóc trắng như người giàChưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốcNhìn nhau mặt lấm cười ha ha.Không có kính, ừ thì ướt áoMưa tuôn, mưa xối như ngòai trờiChưa cần thay, lái trăm cây số nữaMưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.Những chiếc xe từ trong bom rơiÐã về đây họp thành tiểu độiGặp bè bạn suốt dọc đường đi tớiBắt tay qua cửa kính vỡ rồi.Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trờiChung bát đũa nghĩa là gia đình đấyVõng mắc chông chênh đường xe chạyLại đi, lại đi trời xanh thêm.Không có kính, rồi xe không có đèn,Không có mui xe, thùng xe có xước,Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:Chỉ cần trong xe có một trái tim.1969Bài thơ này trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được tác giả đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa.
Nguồn: Vầng trăng quầng lửa, NXB Văn học, 1970
NSUT Linh Nhâm ngâm thơ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật
Bài thơ: Lửa đèn
Lửa đèn
I. Đèn
Anh cùng em sang bên kia cầuNơi có những miền quê yên ảNơi có những ngọn đèn thắp trong kẽ láQuả cây chín đỏ hoeTrái nhót như ngọn đèn tín hiệuTrỏ lối sang mùa hè,Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíuThắp mùa đông ấm những đêm thâu,Quả ớt như ngọn lửa đèn dầuChạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng…Mạch đất ta dồi dào sức sốngNên nhành cây cũng thắp sáng quê hươngChúng nó đến từ bên kia biểnRủ nhau bay như lũ ma trơiTừ trên trời bảy trăm métThấy que diêm sáng mặt ngườiMột nghìn mét từ trên trờiNhìn thấy ngọn đèn dầu nhỏ béTám nghìn métThấy ánh lửa đèn hàn chớp loéMà có cần đâu khoảng cách thấp caoChúng lao xuống nơi naoLoé ánh lửa,Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa.Trên đất nước đêm đêmSáng những ngọn đènMang lửa từ nghìn năm về trước,Lấy từ thuở hoang sơ,Giữ qua đời này đời khácVùi trong tro trấu nhà ta.Ôi ngọn lửa đènCó nửa cuộc đời ta trong ấy!Giặc muốn cướp đi
Giặc muốn cướp lửa tim ta đấy
II. Tắt lửa
Anh cùng em sang bên kia cầuNơi có những miền quê yên ảNơi tắt lửa đêm đêm khiến đất trời rộng quáKhông nhìn thấy gì đâuBóng tối che rồiCây trúc làm duyên phải nhờ gió thổiCô gái làm duyên phải dùng giọng nóiBông hoa làm duyên phải luỵ hương bay…Bóng tối phủ dàyChe mắt địchNơi tắt lửa là nơi vang rền xe xíchKéo pháo lên trận địa đồng caoTiếng khẩu đội trưởng ở đâuĐấy là đuôi khẩu pháoTiếng anh đo xa điểm đềuVang ở đâu, đấy là giữa điểm đồNơi tắt lửa là nơi in vết bánh ôtô,Những đoàn xe đi như không bao giờ hết,chiếc sau nối chiếc trước ì ầmNhư đàn con trẻ chơi u chơi âm
Đứa này nối hơi đứa khác.
Nơi tắt lửa là nơi dài tiêng hátĐoàn thanh niên xung phong phá đá sửa đường;Dẫu hố bom kề bên còn bay mùi khétTóc lá sả đâu đó vẫn bay hươngĐêm tắt lửa trên đườngKhi nghe gần xa tiếng bước chân rậm rịchLà tiếng những đoàn quân xung kíchĐi qua.Từ trong hốc mắt quầng đen bóng tối tràn raTừ dưới đáy hố bom sâu hun hútBóng tối dâng đầy toả ngợp bao la,Thành những màn đen che những bào thai chiến dịchBóng đêm ở Việt NamLà khoảng tối giữa hai màn kịch
Chứa bao điều thay đổi lớn lao,
Bóng đêm che rồi không nhìn thấy gì đâu
Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm thanh mới lạ.
III. Thắp đèn
Anh cùng em sang bên kia cầuNơi có những miền quê yên ảNơi đêm ngày giặc điên cuồng bắn pháNhững ngọn đèn vẫn cứ thắp lênChiếc đèn chui vào ống nứaCho em thơ đi học ban đêm,chiếc đèn chui vao lòng trái núiCho xưởng máy thay ca vời vợi,Chiếc đèn chui vào chiếu vào chăn
Cho những tốp trai làng đọc lá thư thăm
Ta Thắp đèn lên trên đỉnh núiGọi quân thù đem bom đến dộiCho đá lở đá lănLấy đá xây cầu, lấy đá sửa đường tàuTa bật đèn pha ôtô trong chớp loè ánh đạnRồi tắt đèn quay xeĐánh lạc hướng giặc rồi ta lại lái xe đi…Ngày mai, ngày mai hoàn toàn chiến thắngAnh dắt tay em, trời chi chit sao giăng”Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm”Ta thắp đèn lồng, thắp cả đèn sao năm cánhTa dẫn nhau đến ngôi nhà đèn hoa lấp lánh
Nơi ấy là phòng cưới chúng mình
Ta sẽ làm cây đèn kéo quân thật đẹpMang hình những người những cảnh hôm nayCho những cuộc hành quân nào còn trong bóng tối
Sẽ hiện muôn đời trên mặt ngọn đèn xoay.
1967
Ghi chú của tác giả: Hồi cuối năm 1966 tại Tây Bắc, tôi (PTD) đã có mấy tháng là pháo thủ pháo cao xạ (tiểu đoàn 24 trực thuộc Quân khu). Ấy thế mà còn viết nhầm. Do khi viết cứ mê đi, mụ đi mà nhầm. Ấy là dòng này “Tiếng anh đo xa điểm đều như đếm nhịp chày giã gạo”. Những dòng trên đã cho thấy pháo đây là pháo tầm thấp. Ban đêm làm sao dùng được máy đo xa bằng mắt thường. Nhưng thôi, không sửa. Đã là cuộc đời thì hẳn có tì vết.
Nguồn: Thơ Phạm Tiến Duật, NXB Hội nhà văn, 2007
Bài thơ: Lửa đèn
Bài thơ: Nhớ
Nhớ
Lời một chiến sỹ lái xe
Cái vết thương xoàng mà đi việnHàng còn chờ đó, tiếng xe reoNằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
1969
Bài thơ: Nhớ
Bài thơ: Em là tia nắng
Em là tia nắng
Sinh ra cùng với mặt trời
Em là tia nắng vùng đời của anh
Nửa đời anh chẳng êm lành
Quầng bom lửa đỏ, da xanh sốt rừng
Mùa mưa em có biết không
Triền miên 6 tháng ròng ròng toàn mưa
Chồn chân trong khoảng rừng thưa
Lán bộ đội bấy sáng trưa nhớ… trời.
Đường dài có lúc gập ghềnh
Túi không em phải một mình nuôi con
Khổ nào bằng khổ cô đơn
Mà em vẫn một tấc son tự hồng
Ai người biết thuở tay không
Mà gương mặt vẫn tươi hồng nét xuân.
Qua rồi cái thuở gian truân
Đích xa mà lại thấy gần em ơi
Em là tia nắng vùng đời của nhau.
Xuân 2007
Bài thơ này được viết trong niềm cảm hứng mùa xuân mới, nằm trong số những bài thơ cuối cùng được tác giả viết nhưng vẫn chưa kịp công bố trước khi qua đời.
Nguồn: Lê Thị Thanh Bình, “Nhà thơ Phạm Tiến Duật: Những bài thơ cuối”, Báo An ninh thế giới, ngày 2-12-2008
Bài thơ: Em là tia nắng
Bài thơ: Nghe em hát trong rừng
Nghe em hát trong rừng
Nghe em hát mà anh buồn cười
Nhịp với phách xem chừng sai cả
Mồ hôi em ướt đầm trên má
Anh với mọi người nhìn nhau khen hay.
Khu rừng già âm i tàu bay
Các chiến sĩ nhìn em đăm đắm
Mũ sắt lấm, áo ngoài cũng lấm
Mỗi khi cười bóng dáng cứ lung linh
Có lẽ vì khuôn mặt em xinh
Nên tiếng hát nhoè đi không nhớ nữa
Rồi trí nhớ lại bén bùng như lửa
Ẩn náu rất nhiều giọng hát ở xa xăm.
Giữa một vùng đất bụi khô rang
Em bỗng đến như dòng sông đầy nước
Trong nhà hầm hun đầy khói thuốc
Câu hát chành như võng đưa
Các chiến sĩ nghe em hát say sưa
Ngày mai ngày kia sẽ chuyện trò vô khối
Giữa những câu chuyện không đầu không cuối
Bao nhiêu người lại nhắc đến em.
Câu hát bay vòng qua đêm
Mai chiến sĩ lại ra cao điểm
Cuộc chiến đấu đang còn tiếp diễn
Em còn đi, rừng mở những gian hầm.
Tiếng hát bay vòng tháng năm
Ở đâu mà không cần tiếng hát
Nhưng giữa chiến trường nhiều khi thay cho nhạc
Là những tâm hồn có nhạc ở bên trong.
Câu hát màu chi mà khuôn mặt màu hồng
Tiếng hát xa rồi, không nhớ nữa
Đốt lòng nhau cứ gì phải lửa
Tiếng hát trong rừng bay xa, bay xa.
Bài thơ: Nghe em hát trong rừng
Bài thơ: Đèo Ngang
Đèo Ngang
Pháo tàu địch đêm đêm nhằm bắnĐèo vẫn nguyên lành nằm với biển reoNhà như lá đa rơi lưng chừng dốc
Sông suối từ đâu đổ xuống lưng đèo.
Đường nhằm hướng Nam,
Người nhằm hướng Nam,
Xe đạn nhằm hướng Nam vượt dốc.
Bao nhiêu người làm thơ Đèo Ngang
Mà quên mất con đèo chạy dọc.
Bài thơ: Đèo Ngang
Ở Phạm Tiến Duật không, hoặc ít, phân biệt chủ thể, khách thể. Có lẽ khách chủ cũng đều là bộ đội nên họ dễ dàng thành một. Phạm Tiến Duật thật sự là người đã mở rộng phạm vi cái nên thơ, giúp thơ trực tiếp với đời sống và giúp đời sống trực tiếp bước vào thơ. Trên đây chúng mình đã giới thiệu với các bạn những bài thơ hay nhất của Phạm Tiến Duật. Chúc các bạn có những phút giây thư giãn ki đọc các bài thơ này.
Đăng bởi: Vân Đoàn
Từ khoá: 12 Bài thơ hay của nhà thơ Phạm Tiến Duật
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết 12 Bài thơ hay của nhà thơ Phạm Tiến Duật của Pgdphurieng.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.